Navigation

    DDVT

    • Register
    • Login
    • Search
    • Categories
    • Recent
    • Tags
    • Popular
    • Users
    • Groups
    1. Home
    2. Popular
    Log in to post
    • All categories
    • Thông báo từ diễn đàn
    • Thông tin giao dịch vận tải, logistics và chuỗi cung ứng
    •      Dịch vụ vận chuyển quốc tế
    •          Cho thuê tàu
    •          Vận chuyển đường biển, đường bộ, đường sắt FCL/LCL
    •          Vận chuyển hàng không, chuyển phát nhanh, giao hàng nhanh
    •          Dịch vụ logistics khác
    •      Dịch vụ vận chuyển logistics nội địa
    •          Vận chuyển FCL/LCL/OT/FR ( đường biển, đường bộ, đường sắt)
    •          Vận chuyển hàng không, chuyển phát nhanh, thương mại điện tử
    •          Dịch vụ vận chuyển nội địa và logistics khác
    •      Dịch vụ logistics khác
    •      Mua bán thiết bị, phương tiện vận tải, thiết bị hậu cần kho vận
    • Kiến thức giao nhận vận tải, logistics và chuỗi cung ứng
    •      Kiến thức logistics, giao nhận vận tải và xuất nhập khẩu
    •      Chứng từ, tài liệu ( CO, Incoterm, Bảo hiểm, Hợp đồng, Luật TMQT ...)
    •      Thủ tục hải quan
    •          HS Code
    •          Luật Hải quan
    •          Hải quan điện tử
    •      Chuỗi cung ứng
    •          Kiến thức chung chuỗi cung ứng
    •          Chiến lược chuỗi cung ứng
    •          Quản trị chuỗi cung ứng
    •          Thiết kế chuỗi cung ứng
    •          Thuê ngoài (Outsourcing)
    •          Kho bãi và trung tâm phân phối
    •          Thu mua & Bán hàng và triển khai
    •          Quản lý vận tải
    •          Công nghệ thông tin
    •          Nhân sự
    •      Nghề nghiệp logistics, XNK và chuỗi cung ứng, nhân sự và nguồn nhân lực
    •      Công nghệ thông tin, IT, phần mềm, ứng dụng, App
    •      Hàng hải, vận tải sông biển và vận chuyển đa phương thức
    •      Nghiên cứu thị trường xuất nhập khẩu, logistics, học thuật, nghiên cứu và phát triển
    •      Ngôn ngữ chuyên ngành, chia sẻ học thuật bằng các ngôn ngữ quốc tế
    • Blogs
    •      Blogs chuyên gia
    •      Marketing Logistics và Chuỗi cung ứng
    •      Nhà quản lý
    •      Member Blogs
    •      Tài liệu học tập sinh viên
    • All Topics
    • New Topics
    • Watched Topics
    • Unreplied Topics
    • All Time
    • Day
    • Week
    • Month

    • M

      CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ QUY TẮC XUẤT XỨ HÀNG HÓA
      Chứng từ, tài liệu ( CO, Incoterm, Bảo hiểm, Hợp đồng, Luật TMQT ...) • chứng nhận xuất xứ quy tắc xuất xứ • • MinhHHH  

      14
      0
      Votes
      14
      Posts
      4
      Views

      M

      Thủ tục cấp C/O mẫu AANZ thực hiện theo quy định mới từ ngáy 01/01/2019. Ngày 12/11/2018, BCT ban hành Thông tư 42/2018/TT-BCT Quy định thực hiện quy tắc xuất xứ trong Hiệp định thành lập khu vực thương mại tự do ASEAN- ÚC- Newzealand (AANZFTA). Theo đó, thủ tục cấp C/O mẫu AANZ thực hiện theo Nghị định 31/2018/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Quản lý ngoại thương về xuất xứ hàng hóa và Thông tư 05/2018/TT-BCT quy định về xuất xứ hàng hóa. Hiện nay, thủ tục cấp C/O mẫu AANZ được thực hiện theo Thông tư 06/2011/TT-BCT quy định thủ tục cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa ưu đãi và Thông tư 01/2013/TT-BCT sửa đổi bổ sung Thông tư 06. Việc thực hiện thủ tục này còn được thực hiện theo Phụ lục III Thông tư 31/2015/TT-BCT . Ngoài ra, Phụ lục II - Quy tắc cụ thể mặt hàng ban hành kèm theo Thông tư 31/2015/TT-BCT được thay thế bằng phụ lục kèm theo Thông tư 42. Thông tư 42/2018/TT-BTC có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2019.
    • M

      THỦ TỤC HQ NHẬP KHẨU XE MÁY CHUYÊN DÙNG VÀ THIẾT BỊ THI CÔNG
      HS Code • thủ tục hải quan thủ tục nhập khẩu kiểm tra chất lượng đăng kiểm • • MinhHHH  

      9
      0
      Votes
      9
      Posts
      2
      Views

      M

      Máy đào rãnh bánh lốp hiệu ASTEC, CASE. Máy đào tường vây hiệu BAUER, XCMG. Máy đào, vận chuyển vật liệu hiệu: HENGLIZHONGGONG, KONY, LUOYANG. Máy đóng cọc hiệu: GAYK, HITACHI, IHI, NIPPON-SHARYO, SUMITOMO. Tổ hợp máy đào giếng hố ga SHINTOU Xe băng tải vận chuyển hành lý: TLD Xe cấp nước cho máy bay: TLD Xe chở hàng trong sân golf: ALWAYZ, E-Z-GO, JOHN DEERE, LVTONG, MARSHELL, TORO. Xe lu rung hiệu: AMMANN, ATLAS-COPCO, BEUTHLING, BITELLI, BOMAG, CASE, CATERPILLAR, CHANGLIN, DYNAPAC, FASTA, HALLA, HAMM, HITACHI, HYPAC, HYSTER, HYUNDAI, INGERSOLL-RAND, JCB, KAWASAKI, KOEHRING, KOMATSU, KOMATSU-DRESSER, LEBRERO, LONKING, MEIWA, MIKASA, PACIFIC, PROTEC, RAYGO, SAKAI, SAMSUNG, SDLG, SINOMACH, STA, STONE, SUMITOMO, TACOM, VIBROMAX, VOLVO, Weycor, XGMA, XUZHOU-DYNAPAC. Xe lu tĩnh bánh thép, bánh thép. Xe nâng người làm việc trên cao: AICHI, GENIE, JLG, MANITOU, NAGANO, SINOBOOM, SKYJACK, TADANO, TEUPEN. Xe nạp nhiên liệu cho máy bay GARSITE. Xe quét nhà xưởng hiệu: CHENGLIWEI, EUREKA, FEELER, GEMEI, HAKO, JINJIE, KARLER, MARSHELL, MINGNUO, MORALITY, POWERBOSS, TENNANT Xe quét đường hiệu: BUCHER, DULEVO, GEMEI, HAKO, MINGNUO, SCHMIDT, TENNANT, TOKYU. Xe san cát hiệu: JACOBSEN, JOHN DEERE. Xe sơn kẻ đường HOFMANN Xe tạo xung chấn iVi Xe thang hành khách lên máy bay TLD Xe tự đổ bánh lốp hiệu: KOMATSU, VOLVO. Xe tự đổ bánh xích CATERPILLAR, MOROOKA, YANMAR. Xe địa hình hiệu: BODE, KYMCO, RATO.
    • M

      Báo cáo về thị trường chuyển phát nhanh và e commerce
      Nghiên cứu thị trường xuất nhập khẩu, logistics, học thuật, nghiên cứu và phát triển • • MinhHHH  

      6
      0
      Votes
      6
      Posts
      1
      Views

      M

      Forbes Việt Nam: Các cuộc khảo sát ở nước ngoài cho thấy các công ty sản xuất ở Trung Quốc đang có ý định chuyển nhà máy về Đông Nam Á, trong đó Việt Nam là lựa chọn hàng đầu. Ông có nhận thấy xu hướng này hay không? Huỳnh Quang Hải: Chắc chắn là như vậy. Các doanh nghiệp từ những nước lân cận đang dịch chuyển hoạt động sản xuất hiện tại hoặc đưa phần nhà máy mở rộng sang Việt Nam là ưu tiên hàng đầu. So với cùng kỳ năm ngoái, số lượng nhà đầu tư tới tiếp xúc để mở nhà máy trong khu công nghiệp của chúng tôi tăng gấp đôi. Nhu cầu tăng cao khi họ buộc phải đầu tư ra nước ngoài và chọn Việt Nam là ưu tiên, nhằm tận dụng những ưu thế riêng biệt của Việt Nam trong vấn đề sản xuất để tiết kiệm được chi phí, tận dụng nguồn nhân lực đã có tay nghề cơ bản cũng như tận dụng cơ sở hạ tầng và chi phí logistics ngày càng hiệu quả hơn so với một số nước lân cận. Hầu hết trong số đó là các công ty làm hàng xuất khẩu. Họ cần Việt Nam là một cơ sở mới để xuất khẩu hàng hóa đi, ví dụ hàng may mặc, điện tử, tiêu dùng. Forbes Việt Nam: Thời gian gần đây, một số doanh nghiệp nước ngoài lớn có ý định mở kho hàng ở Việt Nam. Họ có chọn VSIP không? Huỳnh Quang Hải: Tôi không thể nói tên nhưng chúng tôi đang làm việc với một số công ty nằm trong tốp đầu về thương mại điện tử trên thế giới để xây dựng tổng kho cho họ. Họ quyết định chọn Việt Nam là một trung tâm bởi vì quy mô đủ lớn và họ làm kho để nhập hàng về bán và mua hàng ở đây bỏ vô kho từ đó xuất đi. Kho đó giống như một e-commercial hub có thể dành cho khu vực Đông Nam Á hoặc dành cho Đông Dương trước tiên. Có doanh nghiệp mở kho ở khu vực lân cận cả Hà Nội và TP.HCM. Diện tích họ cần vào khoảng 30-40 ha, đó là một diện tích lớn nếu so với những công ty thương mại điện tử ở Việt Nam hiện tại. Có công ty muốn triển khai liền. Họ muốn tới năm 2020 phải chính thức hoạt động. Forbes Việt Nam: VSIP đang đầu tư dự án mới nào để mở rộng hoạt động? Huỳnh Quang Hải: VSIP có bảy dự án đang hoạt động và hai dự án mới đang triển khai là VSIP Bình Dương 3 và VSIP Bắc Ninh 2. Trong đó, dự án VSIP Bình Dương 3 có diện tích gần 1.000 ha, dự án VSIP Bắc Ninh 2 gần 300 ha. Dự án đang trong giai đoạn san lấp mặt bằng, xây dựng hạ tầng cơ sở và nhà đầu tư cũng đang đăng ký thuê, nhưng chưa xây dựng nhiều. Hai dự án này mới đang trong giai đoạn bắt đầu. Vốn đầu tư của chủ đầu tư cho hai dự án này khoảng vài trăm triệu đô la Mỹ và có khả năng thu hút 150 nhà máy với số vốn từ vài chục triệu đô la. VSIP: Việt Nam có thể trở thành tổng kho cho thương mại điện tử trong khu vực - ảnh 1 Ông Huỳnh Quang Hải là người điều hành hệ thống khu công nghiệp VSIP trên cả nước. Ảnh: Dâng Phạm Forbes Việt Nam: Các doanh nghiệp nước ngoài đang chuyển dịch theo cuộc cách mạng 4.0, các khu công nghiệp Việt Nam đang chuẩn bị gì cho xu hướng này? Huỳnh Quang Hải: Chúng tôi là nhà xây dựng hạ tầng cơ sở để phục vụ sản xuất công nghiệp, đang làm những bước xây dựng cơ sở phần cứng lẫn phần mềm để phục vụ cho chuỗi cung ứng, để hình thành trung tâm công nghiệp và phục vụ cho các nhà sản xuất để làm sao để từ nơi sản xuất đến nơi xuất khẩu hoặc đến các trung tâm phân phối cho người tiêu dùng với chi phí và thời gian tiết kiệm, cũng giống như phối hợp các nhà sản xuất công nghiệp đào tạo lực lượng lao động có tay nghề tốt hơn. Trong giai đoạn mới, chúng tôi kết nối họ với các nhà sản xuất linh kiện trong và ngoài nước để họ tìm kiếm doanh nghiệp cung ứng dễ dàng hơn. Xu hướng phát triển sắp tới là khu công nghiệp thông minh, tức là từ phần cứng tới phần mềm đi theo hướng áp dụng công nghệ mới trong việc xây dựng hạ tầng, cung ứng năng lượng, xử lý chất thải, thời gian và phương tiện kỹ thuật để kết nối doanh nghiệp, tự động liên hệ thông qua ứng dụng điện thoại mà chúng tôi đang xây dựng. Forbes Việt Nam: Đứng trước xu hướng đó, Việt Nam có thuận lợi và khó khăn gì? Huỳnh Quang Hải: Khi xây dựng khu công nghiệp thông minh, thách thức là con người. Chúng tôi đang gặp khó khăn trong việc tìm kiếm đội ngũ có thể hiểu biết được các nước trên thế giới đã thành công hoặc đang áp dụng sản xuất công nghiệp thông minh, hạ tầng khu công nghiệp thông minh để phục vụ các doanh nghiệp cần những gì. Công nghệ chúng ta có thể mua được nhưng con người, cách áp dụng, xử lỳ cũng như cơ chế để hỗ trợ chúng tôi đang nghiên cứu để làm sao hoạt động hiệu quả nhất. Forbes Việt Nam: Ông có thể cho biết một vài chiến lược của VSIP để cung ứng được cho các doanh nghiệp sản xuất thông minh? Huỳnh Quang Hải: Các khu công nghiệp mới của VSIP đang được thiết kế và xây dựng theo mô hình thông minh hơn, từ hạ tầng cơ sở để làm hiệu quả hơn, nguồn năng lượng ổn định hơn. Chúng tôi đang kết hợp với đối tác từ Singapore, Nhật Bản để áp dụng công nghệ quản trị, vận hành, cung cấp điện, xử lý chất thải, cung cấp nước sạch, thu gom rác. Tất cả quy trình được làm hiệu quả nhất và tiết kiệm chi phí nhất cho doanh nghiệp. Đồng thời phối hợp với các đối tác về logistics và chuỗi cung ứng để gom hàng trong khu công nghiệp chuyển ra cảng hoặc các trung tâm tập kết hàng để đưa hàng về cảng, làm sao để doanh nghiệp không mất nhiều thời gian và tiết kiệm được chi phí. Chúng tôi cũng kết nối với doanh nghiệp trong một ứng dụng điện thoại để các doanh nghiệp tự liên lạc với nhau, để họ biết được trong các khu công nghiệp của chúng tôi, các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm cụ thể gì để họ không vất vả đi tìm. Forbes Việt Nam: Trong phiên thảo luận tại Diễn đàn Horasis châu Á 2018, ông có đề cập tới thương mại điện tử xuyên quốc gia. Theo ông, làm cách nào để thương mại điện tử xuyên suốt giữa các quốc gia? Huỳnh Quang Hải: Phải có chính sách một cửa liên kết hải quan, cảng hàng không quốc tế, kho trữ hàng. Tức là, hàng hóa nhập vào đi thẳng về kho. Tại kho đó, có hải quan, mở ra tại chỗ thì công ty đó sẽ không phải đi khai từng loại hàng hóa. Tức là hàng kéo thẳng tới các kho ngoại quan và có hải quan tại chỗ và hàng đó được cơ quan quản lý liên kết lại, thì lúc đó hàng thương mại điện tử mới chạy nhanh hơn. Thương mại điện tử xuyên biên giới hiện nay là phải làm từng tờ khai cho từng đơn hàng một. Tuy nhiên hiện đã có một số nơi đang thử nghiệm, phải có sự liên kết và được phê duyệt từ tổng cục Hải quan và bộ Tài chính.
    • M

      Các trường hợp sai sót nhỏ được chấp nhận trên CO
      Chứng từ, tài liệu ( CO, Incoterm, Bảo hiểm, Hợp đồng, Luật TMQT ...) • chứng từ xuất nhập khẩu chứng nhận xuất xứ • • MinhHHH  

      5
      0
      Votes
      5
      Posts
      1
      Views

      M

      CO có lỗi chính tả được sửa đổi và đóng dấu có được chấp nhận? CO có lỗi chính tả được sửa đổi và đóng dấu Câu hỏi: Chúng tôi có nhập khẩu 1 lô hàng từ Trung Quốc nhưng CO có lỗi chính tả được sửa đổi và đóng dấu. Tuy nhiên khi xuất trình thì cơ quan hải quan đã bác không chấp nhận CO form E này. Vậy điều này có đúng không? Xin cảm ơn Trả lời: Hiện nay, việc cấp CO form E và kiểm tra CO form E đều thực hiện theo thông tư 36/2010/TT-BCT. Trong đó, tại Điều 10 phụ lục 2 của thông tư 36/2010/TT-BCT hướng dẫn thực hiện hiệp định ACFTA có quy định về cấp CO form E: Điều 10. Không được phép tẩy xóa hoặc viết thêm lên C/O mẫu E. Mọi sửa đổi phải được thực hiện bằng cách gạch bỏ chỗ có lỗi và bổ sung các thông tin cần thiết. Tất cả những thay đổi này phải được chấp thuận bởi người có thẩm quyền ký C/O mẫu E và được Tổ chức cấp C/O tương ứng chứng nhận bằng con dấu chính thức hoặc con dấu sửa lỗi sai (nếu có). Các phần còn trống phải được gạch chéo để tránh điền thêm. Do đó, theo quan điểm trên thì nếu CO có lỗi sai thì có thể được phép gạch phần sai phải được gạch bỏ. Doanh nghiệp bổ sung phần sửa đổi và có con dấu xác nhận của tổ chức cấp CO lên phần sửa đổi (có thể bằng dấu Correction). Vậy khi CO có lỗi chính tả được sửa đổi, doanh nghiệp có thể tham khảo và giải thích các thông tin đầy đủ cho cơ quan hải quan để được hướng dẫn chi tiết hơn.
    • M

      SƠ LƯỢC VỀ THỊ TRƯỜNG GIAO NHẬN VẬN TẢI TRÊN THẾ GIỚI
      Nghiên cứu thị trường xuất nhập khẩu, logistics, học thuật, nghiên cứu và phát triển • logistics việt nam thị trường logistics thị trường giao nhận • • MinhHHH  

      4
      0
      Votes
      4
      Posts
      1
      Views

      M

      IV. Thị trường dịch vụ giao nhận vận tải và vận tải container ở Việt Nam Việt nam đang hội nhập toàn diện vào nền kinh tế thế giới. Chủ trương xây dựng một nền kinh tế mở hướng mạnh vào xuất khẩu. Do đó nhu cầu về xuất nhập khẩu đối với nền kinh tế là rất lớn và ngày càng phát triển. Kéo theo sự phát triển nói riêng của ngành giao thông vận tải và đặc biệt là vận tải bằng container. Vận tải container là cuộc cách mạng lần 3 của ngành vận tải. Muốn đánh giá trình độ phát triển giao thông vận tải của một quốc gia ta có thể đánh giá qua vận tải container. Đối với Việt nam chúng ta, vận tải container cũng đã xuất hiện từ những năm 70 để đáp ứng nhu cầu vận chuyển viện trợ của Mỹ. Sau giải phóng ta tiếp nhận 45.000 container. Năm 1988 vận chuyển container bắt đầu phát triển mạnh với sự ra đời của nhiều doanh nghiệp kinh doanh, giao nhận vận chuyển như Saigonship, Vicouship, Transimer… Hiện nay cả nước có 60 công ty được cấp phép làm đại lý tàu và hàng trục cạc đại gia trong làng vận chuyển của thế giới. EGM, Hanjin,K-line, Neddland, P&O, chủ yếu ở 2 cảng chính là Hải phòng và Sài gòn. Trong những năm gần đây vận chuyển bằng container của Việt nam đã có sự phát triển đột biến. Năm 1995 cả nước chỉ có 427.710 TEU thì năm 2001 đạt 1.000.000 TEU dự kiến năm 2005 đạt 3.5 triệu TEU và năm 2010 đạt 6,5-7,5 TEU. 2.3.1. 2.3.1 Những thuận lợi và khó khăn đối với sự phát triển *Thuận lợi: Vị trí địa lý của Việt Nam nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam á, là cầu nối liền giữa phần đất liền và hải đảo của khu vực. Khu vực có tốc độ phát triển kinh tế năng động nhất thế giới hiện nay; Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đã tác động trực tiếp đến sự phát triển của Việt Nam theo hướng đẩy mạnh xuất nhập khẩu. Đòi hỏi sự phát triển tương ứng của ngành giao thông vận tải và giao nhận vạn tải. Sự khởi sắc của nền kinh rế sau hơn 10 năm đổi mới đất nước đang trong quá trình CNH-HĐH, đòi hỏi khối lượng vạt chất rất lớn, cũng như tạo ra cho thị trường lượng hàng hoá khổng lồ. Thị trường hàng hoá xuất khẩu tăng bình quân 20% / năm. Điều này đã tạo ra nhu cầu rất lớn đối với ngành giao thông vận tải. Sự phát triển của Việt Nam đang trong giai đoan đầu. Do vậy, hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam có khối lượng lớn, cồng kềnh. Đòi hỏi chúng ta phải phát triển đồng bộ vận tải đa phương thức. Chiến lược phát triển của quốc gia trong dài hạn đòi hỏi ngành giao thông phải vận tải phải được đi trước đón đầu. Nếu nhà nước hàng năm giữ sự đầu tư rất lớn cho ngành. *Khó khăn Cùng với sự phát triển rất nhanh của thị trường thì sự cạnh tranh trên thị trường là rất lớnnhất là cạnh trạnh của các đại gia trong làng vận tải thế giới. Điều kiện khí hậu của Việt Nam nắng lắm mưa nhiều gây hậu quả rất lớn cho các công trình phục vụ giao thông vận tải. Địa hình phức tạp chạy dài với hơn 3200 km bờ biển, bị cắt chặn bởi nhiều sông suối, đồi núi, gây trở ngại rất lớn cho giao thông. Sự phát triển cuă Việt Nam vẫn còn sơ khai. Như cơ sở vật chất hạ tầng kỹ thuật còn thiếu và yếu, tính cạnh tranh rất kém trên thị trường khu vực và thế giới. V. Tính hình về chi phí và giá dịch vụ vận chuyển và giao nhận vận tải Chi phí cho vận chuyển có thể gồm các loại sau: – Phí cố định, chi phí xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, hạ tầng cho ngành, chi phí khấu hao. Sửa chữa phương tiên, chi phí bảo hiểm. – Phí kinh doanh khai thác, nhiên liêu, xếp dỡ hàng, phí cảng, biển, đường, dịch vụ khác. – Phí sử dụng lao động, tiền lương, thưởng… – Phí hành chính, quản lý, giao dịch, hoạt động kinh doanh. Vì vận tải container đạt hiệu quả cao nhất trong giao thông vận tải hiện nay. Do vậy chúng ta tập trung nghiên cứu giá cước của vận tải container. – Cước trọn container cho mỗi sản phẩm riêng biệt CBR (Comodity Box Rate). Người vận chuyển dựa vào việc sử dụng trung bình container để tính mức khoán trọn gói container đối với mỗi sản phẩm riêng biệt. Người vận chuyển lấy giá cước hàng hoá làm căn cứ rồi cộng thêm tỷ lệ % định mức cho các mặt hàng. – Cước trọn gói container chung cho mọi loại hàng. FAK(Freigh All Kind). Người vận chuyển dựa vào mức tổng doanh thu dự tính chuyển tàu để chia đều cho mỗi container thành mức trung bình. – Cước trẳ hàng lẻ, được tính theo trọng lượng, thể tích, trị giá hàng tuỳ theo cách chọn của người vận chuyển cộng thêm các loại phí dịch vụ là hàng lẻ. Các công ty có thể linh động áp dụng các loại giá cước, hoặc thu thêm phụ phí, giảm cước cho từng loại đối tượng khách hàng. ởViệt nam hầu hết các công ty vận chuyển đều làm đại lý nên giá cước vận chuyển thường được định sẵn bởi người uỷ thác với các kiểu cước giá theo từng tuyến đường, từng mặt hàng. Với các liên doanh thì tính giá cước theo chi phí bỏ ra đồng thời so sánh với giá của đối thủ cạnh tranh và mục tiêu kinh doanh của mình. Ví dụ: Năm 1999 giá cước vận chuyển container trong khu vực ngoài hiệp hội là: container 20’ – 950$ container 40’ – 1800$ Năm 2001: 850$/container 20’ 1700$/container 40’ Với các doanh nghiệp trong cùng hội tương ứng là Năm 1999: 1000 – 1500$/1 container 20’ 2000 – 21000$/1 container 40’ Năm 2001: 900 – 950$/1 container 20’ 1800 – 1900$/1 container 40’ Do tình hình cạnh tranh trên thị trường là rất lớn nên đã đẩy giá cước giảm xuống nhanh nhằm tăng tính cạnh tranh. VI. Tình hình cạnh tranh trên thị trường Đứng trước thời kỳ nền kinh tế mở như hiện nay, nhà nước ta khuyến khích lưu thông hàng hoá quốc tế nhăm phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trước vận hội đó, ngành vận tải phát triển khá mạnh đặc biệt là vạn chuyển container cầu lối lưu thông giữa các quốc gia. Sự xuất hiện của hàng loạt các công ty vận tải và các hãng giao nhận vận tải làm cho thị trường ngày càng sôi động. Nhưng nếu trên thị trường chỉ đơn thuần là các công ty trog nước cạnh tranh với nhau thì tính quyết liệt chưa cao. Vì các doanh nghiệp Việt nam chủ yếu là vừa và nhỏ, chưa đủ khả năng để kinh doanh vận chuyển hàng hoá cạnh tranh trên trường quốc tê. Mặt khác hệ thống cơ sở vật chất của ngành vẫn còn rất yếu và thiếu nhiều chưa có tính cạnh tranh. Do vậy, thị trường vận tải hàng hoá đặc biệt là vận tải container của nước ta chủ yếu là do các hãng lớn trên thế giới chiếm lĩnh và cạnh tranh quyết liệt với nhau. Các “đại gia” trong ngành đều có những chiến lược cạnh tranh riêng theo ưu thế, tiềm lực và mục tiêu kinh doanh của mình. Họ đưa ra những dịch vụ rất tốt, thoả mãn được những khách hang khó tính nhất.Đồng thời họ xây dựng được đội ngũ nhân viên Marketing ưu tú, năng động sáng tạo để thu hút khách hàng về phía mình và giữ quan hệ làm ăn lâu dài với họ. Theo thống kê, hiện nay trên thị trường Việt nam có khoảng 40 công ty trong nước và 50 công ty nước ngoài (cả liên doanh)và hơn 30 hãng cạnh tranh trong lĩnh vực giao nhận vận tải. Họ cạnh tranh rất khốc liệt với nhau để giành, giữ khách hàng và các bản hợp đồng giao nhận vận tải với các nhà xuất nhập khẩu. Ngay cả trong nội bộ cùng một hãng cũng có sự cạnh tranh gay gắt như: Hãng Hạnin, Yangming, Huynhdai. Mỗi loại hình công ty đều có những ưu thế mạnh riêng để cạnh tranh, cùng với những hạn chế thường bị đối phương lợi dụng để tấn công vào. Các công ty liên doanh có được lợi thế về thương mại, tài chính, công nghệ làm công cụ cạnh tranh rất hiệu quả, nhưng vẫn có hạn chế về môi trường kinh doanh, thiếu sự hiểu biết về thị trường. Các công ty nhà nước thường có lợi thế về quy mô, kinh nghiệm và sự ưu đãi từ chính quyền nhưng lại có nhược điểm cồng kềnh, chậm chạm kém năng động. Với công ty tư nhân mặc dù còn nhỏ lẻ, tính chuyên nghiệp chưa cao nhưng thường rất năng động với bộ máy gọn nhẹ, phương thức hoạt động mềm dẻo. Trên thị trường, tuy cạnh tranh khốc liệt như vậy nhưng chưa một gương mặt nào của Việt nam đủ sức trở thành một công ty giao nhận vận chuyển cạnh tranh chuyên nghiệp trên thế giới. Nguồn: voer
    • M

      CÁC LOẠI PHỤ PHÍ HÃNG TÀU THU CHO 1 LÔ HÀNG XK / NK
      Chứng từ, tài liệu ( CO, Incoterm, Bảo hiểm, Hợp đồng, Luật TMQT ...) • phí hãng tàu phụ phí đường biển • • MinhHHH  

      4
      0
      Votes
      4
      Posts
      1
      Views

      M

      United States: Demurrage = space at the terminal = Overseas: Storage = space at the terminal United States: Storage = space at rail depot, warehouse = Overseas: Storage = space at rail depot, warehouse. United States: Per Diem = use of the equipment = Overseas: Demurrage = use of the equipment. United States: Detention = time for loading/unloading = Overseas: Detention = time for loading/unloading.
    • H

      Cơ hội nghề nghiệp của Supply Chain – Chuỗi cung ứng
      Nghề nghiệp logistics, XNK và chuỗi cung ứng, nhân sự và nguồn nhân lực • qalogistics supplychain nhanluclogistic • • HueQAL  

      3
      0
      Votes
      3
      Posts
      4
      Views

      SalesQAL

      Chuỗi cung ứng đã tham gia vào hệ thống quốc tế Đòi hỏi chất lượng nhân lực ngày càng cao...
    • M

      Dịch vụ vận chuyển hàng không nội địa và quốc tế
      Vận chuyển hàng không, chuyển phát nhanh, thương mại điện tử • vận chuyển quốc tế vận chuyển nội địa vận chuyển hàng không vận chuyển trung quốc • • MinhHHH  

      3
      0
      Votes
      3
      Posts
      10
      Views

      A

      những chiếc xe tải van thương hiệu Gaz, xe Gaz Van
    • H

      Dịch vụ vận chuyển quốc tế bằng đường biển
      Vận chuyển đường biển, đường bộ, đường sắt FCL/LCL • vận chuyển quốc tế vận chuyển đường biển vận tải biển • • HoangQAL  

      3
      0
      Votes
      3
      Posts
      6
      Views

      Đ

      Xe tải tera100 chạy rất ổn định, tiết kiemj nhiên liệu.
    • T

      Vận đơn đường biển và chứng nhận thực xuất
      Chứng từ, tài liệu ( CO, Incoterm, Bảo hiểm, Hợp đồng, Luật TMQT ...) • • THG  

      3
      0
      Votes
      3
      Posts
      4
      Views

      A

      Rất nhiều xe nhập khẩu dang về đến Việt Nam. Nổi bật lên là các dòng xe GAZ van
    • M

      QUY TRÌNH SALES LOGISTICS (phần 1)
      Nghề nghiệp logistics, XNK và chuỗi cung ứng, nhân sự và nguồn nhân lực • nhân sự logistics sales logistics • • MinhHHH  

      3
      0
      Votes
      3
      Posts
      1
      Views

      M

      8. Theo dõi hàng hóa. Vì là người đứng giữa nên công ty phải theo dõi cả 2 phía, theo dõi khách hàng để kịp thời xử lý hàng đúng ngày, kịp thời điểm không làm trễ hẹn của khách gây mất uy tín của công ty và theo dõi hãng tàu để book tàu kịp thời chuyến gần nhất, vì thường khách hàng sẽ tham khảo giá trước 20 ngày thậm chí 1 tháng so với ngày xuất nhập hàng hóa. Do đó, khi khách hàng đã đồng ý thuê công ty vận chuyển lô hàng sắp tới thì cần phải theo dõi để book tàu kịp thời. Sơ đồ 2: Quy trình theo dõi hàng hóa Sơ đồ 2: Quy trình theo dõi hàng hóa 9. Chuyển giao công việc. Công việc của Sales Logistics đã hoàn thành 80%, các phần còn lại bộ phận chứng từ và giao nhận sẽ đảm nhiệm để đưa hàng đến nơi quy định, theo đúng những nhu cầu mà khách đã đề nghị. Bộ phận chứng từ sẽ liên hệ với người gửi hàng hoặc người nhập hàng để lấy một số chứng từ liên quan như packing list, invoice, giấy chứng nhận xuất xứ, … Và sẽ phát hành một số chứng từ như House bill, D/O, … phục vụ cho quá trình làm việc giữa bộ phận giao nhận với hải quan, và giữa công ty với khách hàng. Bộ phận giao nhận : Đến ngày xuất, nhập hàng, cầm tất cả các giấy tờ, chứng từ liên quan ra cảng, kho, bãi, tiến hành làm thủ tục xuất, nhập hàng, chuyển giao hàng cho người nhận hàng. 10. Chăm sóc khách hàng. 20% còn lại đối với bạn đó là làm cách nào để giữ chân khách hàng sau đó. Hãy chăm sóc họ thật tốt , hãy đưa họ trở thành khách hàng trung thành của công ty. Hãy gửi một lời nhắn qua điện thoại, gmail, skype cho khách hàng khi đến dịp lễ, tết; mở ra những buổi tiệc giao lưu, gặp gỡ cà phê trò chuyện các kiểu để thân thiết hơn. Ở nhiều doanh nghiệp sẽ có dịch vụ tư vấn nghiệp vụ miễn phí giúp cho đối tác của mình khi gặp khó khăn trục trặc với hải quan, thông quan, giảm thuế,…
    • Minh1

      Vận chuyển đường sắt liên vận quốc tế
      Vận chuyển đường biển, đường bộ, đường sắt FCL/LCL • qalogistics vận chuyển quốc tế vận chuyển container vận chuyển trung quốc • • Minh1  

      3
      0
      Votes
      3
      Posts
      2
      Views

      CCU

      Đường sắt tuyến ZhengZhou - Yên Viên Guang Zhou - Yên Viên Một số tuyến gom tại Hà Bắc, Hà Nam, Bắc Kinh ... Vận chuyển vỏ SOC và cont 40HC
    • M

      BIỂU THUẾ XNK CPTPP 2019 - 2022
      Chứng từ, tài liệu ( CO, Incoterm, Bảo hiểm, Hợp đồng, Luật TMQT ...) • thuế xuất nhập khẩu cptpp • • MinhHHH  

      3
      0
      Votes
      3
      Posts
      2
      Views

      M

      Biểu thuế XK CPTPP ưu đãi gồm 519 dòng thuế. Thuế suất trung bình năm 2019 là 19,1%; năm 2020 là 17,4%; năm 2021 là 15,7%; năm 2022 là 14,1%. Thuế suất cho giai đoạn 2019-2022, áp dụng quy định của Hiệp định vào thực tế, Mexico thông báo sẽ áp dụng thời điểm cắt giảm thuế lần đầu tiên vào ngày Hiệp định có hiệu lực đối với Việt Nam (14/1/2019). Các nước Australia, Canada, Nhật Bản, New Zealand, Singapore thông báo áp dụng thời điểm cắt giảm thuế lần đầu tiên vào ngày Hiệp định có hiệu lực đối với các nước này (30/12/2018). Trên cơ sở đó, lộ trình cắt giảm thuế của Việt Nam sẽ áp dụng cho 2 nhóm nước: (i) Mexico áp dụng thuế suất theo lộ trình cắt giảm bắt đầu năm thứ nhất; (ii) Các nước Australia, Canada, Nhật Bản, New Zealand, Singapore áp dụng thuế suất theo lộ trình cắt giảm bắt đầu năm thứ hai. Bộ Tài chính dự kiến đặt ra điều kiện áp dụng thuế suất thuế XK ưu đãi theo Hiệp định CPTPP là có chứng từ vận tải và tờ khai NK thể hiện đích đến thuộc lãnh thổ các nước trên. Yêu cầu cung cấp chứng từ vận tải và tờ khai NK nhằm mục đích đảm bảo kiểm soát được hàng hóa thực tế được NK vào lãnh thổ các nước theo quy định do quy trình XK không áp dụng được chứng nhận xuất xứ (C/O) như trường hợp NK. Trên thực tế, tại thời điểm làm thủ tục hải quan, hàng hóa XK thường chưa có các chứng từ vận tải và tờ khai NK thể hiện đích đến như quy định, do đó Nghị định quy định tại thời điểm này, hàng hóa áp dụng mức thuế suất quy định tại Biểu thuế XK hiện hành (không phải thuế suất ưu đãi) sau khi nộp chứng từ vận tải theo quy định thì được cơ quan quản lý thuế xử lý tiền thuế nộp thừa theo quy định của Luật Quản lý thuế (Điều 47) và các điều khoản hướng dẫn thi hành
    • M

      Ngành logistics Việt khát nhân lực do đào tạo thiếu bài bản
      Nghề nghiệp logistics, XNK và chuỗi cung ứng, nhân sự và nguồn nhân lực • nhân sự logistics quản trị logistics nhân sự chuỗi cung ứng • • MinhHHH  

      3
      0
      Votes
      3
      Posts
      1
      Views

      M

      Theo Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam, cả nước hiện có khoảng hơn 3.000 doanh nghiệp tham gia cung cấp dịch vụ logistics, trong đó 1.300 doanh nghiệp đang hoạt động tích cực. Đến năm 2030, Việt Nam sẽ cần hơn 200.000 nhân sự phục vụ trong ngành này. Tuy nhiên, tại Hội thảo “Đào tạo và nâng cao chất lượng nhân lực về logistics” do Cục Xuất Nhập khẩu Bộ Công Thương phối hợp với Dự án Hỗ trợ chính sách thương mại và đầu tư của châu Âu (EU-MUTRAP) tổ chức sáng nay tại Hà Nội, các chuyên gia cho rằng, việc đào tạo như hiện nay đang khiến ngành logistics rơi vào tình trạng thiếu nhân lực cả về lượng và chất. Để giải quyết được bài toán nguồn nhân lực, việc liên kết đào tạo nhân lực giữa nhà trường - doanh nghiệp - nhà nước và hiệp hội cần đi vào thực chất. Đánh giá về thực trạng logistics hiện nay, ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất Nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết, mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong thời gian qua nhưng hiện trình độ và mức độ phát triển của ngành dịch vụ logistics Việt Nam hiện nay vẫn ở mức tương đối thấp. Bởi số lượng doanh nghiệp dịch vụ logistics của Việt Nam vẫn quá ít, chỉ vào khoảng 1.300-1.500 doanh nghiệp. Hơn nữa, mức độ đóng góp cho nền kinh tế của ngành dịch vụ logistics còn thấp, mới chỉ vào khoảng 2-3% GDP. Ngoài ra, tỷ lệ thuê ngoài của ngành dịch vụ logistics chưa cao, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, doanh nghiệp thương mại vẫn phải tự thực hiện các dịch vụ logistics, khiến hoạt động này kém hiệu quả. Theo ông Trần Thanh Hải, logistics là ngành đang phát triển nhanh chóng tại Việt Nam. Vì thế, ngành logistics giai đoạn 2017-2020 sẽ cần thêm khoảng 20 ngàn lao động chất lượng cao, có trình độ chuyên môn. Và đến 2030 con số này sẽ chạm ngưỡng 200 ngàn lao động đáp ứng đủ yêu cầu về kỹ năng, kiến thức chuyên môn và trình độ tiếng Anh. Tại Việt Nam, có 3 hình thức đào tạo logistics gồm các cơ sở đào tạo bậc đại học/sau đại học và nghề; tại các hiệp hội và tại chính các doanh nghiệp. Thống kê cho thấy, Việt Nam đang có 15 cơ sở đào tạo về chuyên ngành logistics hoặc gần chuyên ngành logistics ở cấp đại học/sau đại học và cơ sở dạy nghề về logistics. Tuy vậy, lực lượng giảng viên vẫn đang thiếu và mỏng nên chủ yếu là các chuyên gia từ ngành khác sang giảng dạy khiến kiến thức truyền tải vẫn chưa nhiều. Ông Nguyễn Tương, Phó Tổng thư ký Hiệp hội doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam nhấn mạnh, có thể thấy nguồn nhân lực trong ngành logistics Việt Nam hiện nay còn yếu và thiếu hụt về cả số lượng và chất lượng. Dù đã phát triển dịch vụ logistics bên thứ 3 (3PL) nhưng phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam còn có khoảng cách lớn với các doanh nghiệp nước ngoài về uy tín trên thương trường, dịch vụ khách hàng. Một trong những lý do dẫn đến tình trạng đó, ngoài yếu kém về công nghệ là trình độ tay nghề logistics và tính chuyên nghiệp của nguồn nhân lực trong ngành còn thấp. Ông Nguyễn Tương cũng chỉ ra việc thiếu hệ thống đào tạo bài bản về dịch vụ logistics, sự thiếu chủ động của doanh nghiệp trong đầu tư cho nguồn nhân lực. Hơn nữa, doanh nghiệp chưa có kế hoạch tuyển dụng định kỳ và lâu dài mà thường chỉ tuyển dụng khi nào cần và chỉ giải quyết yêu cầu trước mắt hơn là kế hoạch phát triển lâu dài. Những điều đó khiến người lao động không có động lực thúc đẩy để trau dồi chuyên môn trình độ và kỹ năng làm việc của bản thân để trở nên chuyên nghiệp hơn. Nguyên nhân khác nằm ở chính người lao động ngay từ khi lựa chọn ngành ngề đào tạo đã không hướng tới một công việc cụ thể nên thường thiếu các kỹ năng cần thiết. Không những thế, lao động cũng chưa chủ động trong việc tìm hiểu nhu cầu tuyển dụng và tiếp cận các công ty logistics khi còn đang là sinh viên mà đa số chỉ bắt đầu quá trình tìm việc từ 3 - 6 tháng trước khi tốt nghiệp. Phó Giáo sư-Tiến sĩ Trịnh Thị Thu Hương, Phó Trưởng khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội cũng thừa nhận một số bất cập về việc chưa có mã ngành logistics. Cùng đó, số lượng sinh viên tham gia học chuyên ngành này cũng chưa nhiều nên thực hành cũng từ đó mà hạn chế hơn. Do đó, để phát triển và tạo môi trường thuận lợi cho việc đào tạo ngành logistics, bà Trịnh Thị Thu Hương đề nghị Chính phủ cần rà soát và tiếp tục thực hiện, phát triển các chính sách tạo thuận lợi cho các hoạt động của logistics. Mặt khác, các đơn vị chức năng cần phối hợp chặt chẽ với doanh nghiệp, xác định nhu cầu của doanh nghiệp trong thời gian tới để có kế hoạch đào tạo hợp lý tránh tình trạng đào tạo tràn lan, chi phí tốn kém nhưng tỷ lệ thất nghiệp lại gia tăng. Ngoài ra, việc hợp tác công tư góp phần tạo điều kiện cho việc xây dựng kế hoạch và chương trình đào tạo gắn trực tiếp với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp. Đặc biệt, Chính phủ cũng cần trao đổi và mở rộng cơ hội hợp tác đào tạo quốc tế cho các cơ sở đào tạo đại học, tạo môi trường thuận lợi cho việc đầu tư vào lĩnh vực giáo dục, đem cơ hội và học bổng về cho sinh viên và cán bộ trong nước./.
    • QAL_Sea

      Bán dầu Texas, bán dầu bôi trơn, dầu máy, dầu thủy lực
      Mua bán thiết bị, phương tiện vận tải, thiết bị hậu cần kho vận • bán dầu máy qatech bán dầu texas • • QAL_Sea  

      3
      0
      Votes
      3
      Posts
      13
      Views

      SalesQAL

      Dầu bôi trợ các loại Mua bán sỉ và lẻ
    • N

      Chuỗi cung ứng và kênh marketing
      Kiến thức chung chuỗi cung ứng • chuỗi cung ứng marketing • • Nam  

      3
      0
      Votes
      3
      Posts
      1
      Views

      N

      PHÁT TRIỂN CHIẾN LƯỢC PHÂN PHỐI HIỆU QUẢ Có 3 bước khi phát triển một chiến lược phân phối hiệu quả: Phân tích môi trường phân phối Thiết lập mục tiêu phân phối và chiến lược kênh Thiết kế cấu trúc kênh 3.1.Phân tích môi trường phân phối Công việc đầu tiên liên quan đến việc phân tích tình huống (xem xét các kênh phân phối trong việc phân tích môi trường ở cấp độ ngành), mục đích của việc xem xét này là phát triển một sự hiểu biết rõ ràng về những thay đổi có thể nảy sinh trong tương lai liên quan đến môi trường phân phối. N hững nhân tố của môi trường như sự thay đổi nhu cầu và sở thích của khách hàng liên quan đến việc tiếp cận sản phNm hay dịch vụ của tổ chức, chiến lược và các động thái cạnh tranh của đối thủ cũng như những thay đổi trong cấu trúc kênh cần được xem xét khi phát triển một chiến lược phân phối hiệu quả. Chẳng hạn, trong một danh mục hàng hóa có thể tồn tại phân đoạn với nhu cầu được phục vụ một cách cá nhân và trực tiếp (personalised face-to-face customer service), trong khi phân đoạn khác lại mong muốn được chăm sóc thông qua các phương tiện điện tử như Internet và máy ATM (trong trường hợp ngân hàng). Tương tự, những thay đổi trong chiến lược phân phối của đối thủ cạnh tranh chính có thể mang đến một cơ hội hoặc mối đe dọa cho tổ chức. Lấy ví dụ vào năm 1998, khi Compaq quyết định bán sản phNm của mình qua website và cạnh tranh với Dell, hãng IBM phải lựa chọn hoặc tiếp tục giữ các kênh phân phối truyền thống hoặc đi theo xu hướng này. Quyết định này của Compaq đã mang đến cho IBM cơ hội giành được lợi thế cạnh tranh và nhận sự hỗ trợ từ các trung gian. Bên cạnh đó, nhiều thay đổi diễn ra được xem như những sự kiện không thể tránh được khi sản phNm trải qua các giai đoạn khác nhau của chu kỳ sống. Bởi vì sự thay đổi trong kênh phân phối có thể dẫn đến những quyết định mang tính chiến lược, các hãng cần xem xét môi trường phân phối dựa trên những điều kiện sau đây: • Tìm hiểu khách hàng thực sự muốn gì. Điều này đồng nghĩa công ty phải thực hiện các cuộc nghiên cứu thị trường để xác định nhu cầu của khách hàng (hiện tại và tiềm năng) và nhóm gộp họ thành những phân đoạn thị trường thích hợp. Các công ty nên xem xét mỗi cấp độ khách hàng từ trung gian cho đến người sử dụng cuối cùng để quyết định chuỗi nhu cầu của họ. Thông qua nghiên cứu, đánh giá được mức độ hài lòng của khách hàng về sự cung ứng dịch vụ, tính tiện lợi của việc mua hàng và bất kỳ những yêu cầu về giá trị tăng thêm, chẳng hạn như kích cỡ lô hàng (số lượng món hàng người tiêu dùng muốn mua); mức độ phân tán của thị trường (khách hàng sẽ liên hệ với nhà cung ứng địa phương hay trên toàn quốc); thời gian chờ đợi (thời gian trung bình mà khách hàng phải chờ để nhận được hàng, thường khách hàng yêu cầu tốc độ giao hàng nhanh); tính đa dạng của sản phNm (mong muốn của khách hàng được cung ứng một hệ sản phNm đầy đủ) hay các dịch vụ chăm sóc; sự tiện lợi về mặt không gian (mức độ mà kênh tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng khi mua hàng) và các dịch vụ gia tăng như tín dụng, giao hàng, lắp đặt và sửa chữa. N gười thiết kế kênh marketing đều nhận thức được rằng cung cấp dịch vụ tốt hơn gắn liền với chi phí kênh tăng lên và giá cao hơn cho khách hàng. Sự thành công của các cửa hàng chiết khấu chứng tỏ rằng nhiều khách hàng muốn chấp nhận mức dịch vụ thấp nếu họ có thể tiết kiệm được. • Quyết định điểm bán thích hợp. Từ những cuộc nghiên cứu trên, công ty cần đưa ra quyết định liên quan đến các phân đoạn thị trường của sản phNm và điểm bán, cụ thể khách hàng thích mua sắm tại đâu và họ mong đợi nhận được dịch vụ gì từ những điểm bán đó. Ví dụ, một phân đoạn đang tìm kiếm những sản phNm tiêu dùng nhanh với mức giá thấp thường có xu hướng tìm các điểm bán tự phục vụ không rườm rà. • Nghiên cứu về chi phí. Công ty phải ước tính tất cả chi phí bao gồm chi phí đáp ứng những nhu cầu khác nhau của khách hàng về dịch vụ và chi phí hỗ trợ thành viên trong kênh. Điều này sẽ liên quan đến quyết định về một thỏa thuận giữa yêu cầu về dịch vụ và phần lợi nhuận chia lại. Chẳng hạn, khi nhận thấy rằng các điểm bán nhỏ lẻ có thể không mang lại hiệu quả kinh tế cao, công ty sẽ quyết định liệu có nên tiếp tục hỗ trợ chúng vì một lý do chiến lược nào đó hay nhanh chóng loại bỏ chúng. N ghiên cứu cho thấy rằng việc cắt giảm cung ứng cho các điểm bán nhỏ lẻ và thay bằng hỗ trợ tiền mặt có thể làm tăng lợi nhuận cho hãng. Công ty nên áp dụng nguyên tắc Pareto để tìm ra 20% khách hàng có khả năng sinh lợi. • Quyết định về nhu cầu thay đổi. Ở giai đoạn xem xét này sẽ xảy ra nhiều sự khác biệt giữa một hệ thống phân phối lý tưởng và hệ thống hiện tại. Cách quyết định về việc cắt giảm một số khách hàng nào đó, thay đổi nhà phân phối hay lựa chọn hình thức phân phối mới sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các lĩnh vực trong tổ chức. Vì thế, trước khi đưa ra bất kỳ quyết định nào, công ty cần thông qua các nhà quản trị tuyến sản phNm để xem xét và tìm kiếm một mục tiêu chung cho hệ thống phân phối, cách nhìn của họ về hệ thống lý tưởng và hiện tại. Điều này sẽ giúp cho tiến trình ra quyết định mang tính thực tế hơn và khai thác được những khả năng hiện tại và tiềm năng của tổ chức. Đặc biệt công ty phải đánh giá được những ảnh hưởng của việc thay đổi này đối với hiệu quả hoạt động chung (chi phí, doanh thu và lợi nhuận), hiệu năng (đặc biệt là thị phần) và khả năng thích nghi (dòng chảy đầu vào, khả năng chấp nhận sản phNm mới và khả năng đáp ứng với công nghệ mới). Sau khi xem xét tính hiệu quả của những yếu tố trên cùng những lựa chọn hình thức phân phối mới cho hệ thống hiện tại, công ty sẽ đưa ra nhu cầu về những thay đổi cần thiết. • Chuẩn bị một kế hoạch hành động chi tiết. N ếu những thay đổi được tạo ra trên hệ thống hiện tại, chúng phải được lập kế hoạch rất cụ thể. N hững thay đổi nào có thể gây nên các tổn thương nghiêm trọng cho hãng nếu chúng không được thực thi hiệu quả, cần bị loại bỏ ngay từ đầu. Mục tiêu chung của hệ thống phân phối này là nhằm đạt được lợi thế cạnh tranh do đó sự chú ý vào các chi tiết đắt giá nhất liên quan đến việc thực thi là rất cần thiết. Chúng cần được tích hợp khi công ty tiến hành kế hoạch marketing chiến lược. 3.2.Thiết lập các mục tiêu phân phối và chiến lược kênh phân phối Phát triển một chiến lược phân phối hiệu quả có liên quan đến việc xem xét hàng loạt các nhân tố bên trong và bên ngoài ảnh hưởng đến tổ chức. Hãng có thể bắt đầu bằng việc đánh giá quyết định chiến lược mà các đơn vị kinh doanh đang theo đuổi, bởi vì nhiều cấp độ quyết định cao hơn có ảnh hưởng trực tiếp đến cách thức phân phối hàng hóa hoặc dịch vụ cho khách hàng. • Phạm vi cạnh tranh – tổng thể thị trường hay chỗ trống thị trường Yếu tố này ảnh hưởng đến bản chất và quy mô của hệ thống phân phối. Một tổ chức theo đuổi chiến lược hỗn hợp phân đoạn thị trường (multi-segment) thường có nhu cầu phân phối sản phNm hay dịch vụ qua nhiều kênh phân phối khác nhau để tiếp cận với các phân đoạn này. N gược lại, các tổ chức theo đuổi chiến lược lấp chỗ trống thị trường thường không đòi hỏi sự đa dạng trong hệ thống kênh phân phối. • Lợi thế về vị trí (positional advantage) Một tổ chức đạt được vị thế của nhà dẫn đạo chi phí sẽ tập trung vào chiều hướng khác với một tổ chức đang theo đuổi chiến lược tạo sự khác biệt. N gười dẫn đạo chi phí đạt được lợi thế vị trí bằng cách đầu tư nguồn lực nhằm hạ thấp chi phí cung ứng sản phNm hay dịch vụ trong khi người tạo sự khác biệt sẵn sàng đầu tư nguồn lực để mang đến dịch vụ vượt trội cho khách hàng. Cả hai đều hướng đến một cấu trúc phân phối có chi phí hiệu quả, nhưng họ sẽ dành mức độ chú ý khác nhau vào những yếu tố như: tính sẵn sàng của sản phNm, sự dễ dàng trong phương thức đặt hàng, tốc độ đặt và giao hàng, tính tin cậy và chuNn xác của việc cung ứng, sự phù hợp và chất lượng bao bì, tính ổn định và thời gian giao hàng, thái độ sẵn sàng giúp đỡ và nhã nhặn của đội ngũ nhân viên (ví dụ: lực lượng xử lý đơn hàng), khả năng đáp ứng những nhu cầu khNn cấp… N gười dẫn đạo chi phí và người tạo sự biệt cũng có cách tiếp cận khác nhau về hoạt động hậu mãi như: bảo hành, thời gian thay thế và sửa chữa hàng hóa bị hư hỏng và tính sẵn có của không gian trưng bày và lưu kho. Phương thức mà đơn vị kinh doanh lựa chọn để cạnh tranh trên thị trường cũng là một trong những yếu tố mà tổ chức cần cân nhắc khi phát triển chiến lược phân phối. Chẳng hạn, những công ty đầu tiên thăm dò thị trường với lợi thế của người đi trước sẽ ra sức kết nối và tổ chức mạng lưới kênh phân phối dựa trên lòng trung thành của các thành viên. N ếu người tiên phong chọn lựa theo đuổi một chiến lược thâm nhập thị trường rộng rãi, bao gồm việc sử dụng chính sách giá thâm nhập thì hình thức chiến lược phân phối thích hợp lúc này là tăng cường mở rộng hệ thống phân phối. Công ty sẽ sử dụng các chương trình cổ động thương mại để khuyến khích các trung gian chấp nhận sản phNm mới. Tuy nhiên, nếu chiến lược của công ty là định giá hớt váng, nó sẽ sử dụng một hình thức phân phối chọn lọc hơn với mục tiêu mang lại lợi nhuận biên cao cho tổ chức và cho các trung gian phân phối. Ở giai đoạn tăng trưởng của chu kỳ sống, người dẫn đạo thị trường (thông thường là người tiên phong) cần theo đuổi các chiến lược nhằm duy trì hay tăng cường lòng trung thành của các trung gian phân phối. Hoạt động cổ động thương mại đóng vai trò quan trọng trong chiến lược này. Đối với người thách thức thị trường, nỗ lực tranh giành hệ thống kênh phân phối trong giai đoạn này thể hiện qua chiến lược tấn công trực diện (phân phối ở cùng điểm bán lẻ với người dẫn đạo) hoặc tấn công bên sườn (phân phối ở những điểm bán mà người dẫn đạo chưa vươn tới). Việc quyết định sử dụng các điểm phân phối mới hay bất kỳ hình thức phân phối nào khác có ý nghĩa rất quan trọng đối với công ty. Tạp chí Family Circle đã tạo ra cuộc cách mạng về cách thức sử dụng kênh phân phối khi nó tung ra tờ tạp chí đầu tiên vào năm 1972. Hãng này đã bỏ qua kênh phân phối truyền thống là những sạp báo và lựa chọn siêu thị làm nơi đưa tạp chí đến với khách hàng. Các chuỗi siêu thị giờ đây được xem là trung gian tiềm năng cho việc phân phối những sản phNm mới, giúp cho các tổ chức đạt được thành công trong thị trường có tính cạnh tranh cao. Family Circle đã thay đổi hành vi mua của khách hàng bằng cách biến tạp chí từ loại hàng hóa bổ sung sang loại hàng hóa mua sắm thông thường (a shopping good). Chiến lược tương tự cũng tỏ ra phù hợp với người theo sau trong giai đoạn bão hòa của chu kỳ sống. Dell đã sử dụng phương thức marketing hoàn toàn mới cho mặt hàng máy tính cá nhân khi ông thành lập công ty Dell Computers vào giữa thập niên 80. Trong vòng 6 năm, Dell Computer từ một cơ sở nhỏ bé chỉ có vài nhân viên đã phát triển thành một ngành kinh doanh với lợi nhuận hàng năm lên đến 400 triệu đô và một đội ngũ gồm 175 nhân viên bán hàng cá nhân, mang đến những chiếc máy tính cá nhân được thiết kế theo mong muốn của khách hàng với mức giá cực thấp. N ăm 1997, doanh số bán của hãng qua mạng Internet đã vượt 1triệu USD một ngày và đến năm 1999, con số này đã tăng vọt lên 10 triệu USD một ngày! Trong giai đoạn bão hòa của chu kỳ sống, thách thức lớn nhất của người dẫn đạo và người thách thức thị trường chính là việc gìn giữ hệ thống kênh phân phối. Bởi vì doanh số sản phNm bắt đầu giảm, các trung gian bắt đầu hạn chế số lượng nhãn hiệu. Do đó để duy trì khả năng phân phối, những nhãn hiệu có thị phần thấp thường triển khai các chương trình khuyến mãi và giảm giá, đNy áp lực về lợi nhuận biên cho tất cả “người chơi” trên thị trường. Một vấn đề nữa là các thương hiệu gia đình (house brands) thường có xu hướng xuất hiện trong suốt giai đoạn này (thậm chí ở giai đoạn tăng trưởng) khiến cho áp lực lên người dẫn đạo và người thách thức về doanh số và lợi nhuận biên ngày càng tăng lên. Tuy nhiên người dẫn đạo và người thách thức cần tiếp tục các chương trình khích lệ hiệu quả để duy trì sự hỗ trợ từ phía các trung gian. Ở giai đoạn suy thoái chiến lược phân phối nhấn mạnh vào sự duy trì khách hàng và cắt giảm chi phí cung ứng, công ty sẽ sử dụng các điểm bán có chi phí thấp, như máy bán hàng tự động hoặc các ATM và loại bỏ những điểm bán không còn khả năng sinh lợi. Một trong những yếu tố quan trọng nhất góp phần tạo nên tính hấp dẫn của chương trình marketing nói chung là việc đạt được sự hỗ trợ từ phía các nhà phân phối. Đối với những tổ chức sử dụng kênh phân phối truyền thống, họ phải thực sự thấu hiểu nhu cầu của các trung gian và phát triển một chiến lược quản trị kênh có thể thỏa mãn những nhu cầu đó. Chẳng hạn, một số thành viên kênh có nhu cầu về doanh thu cao và lợi nhuận biên thấp trong khi các thành viên khác lại mong muốn mức doanh thu thấp và lợi nhuận biên cao. N hà sản xuất cần hiểu rằng họ bán hàng qua nhà phân phối chứ không phải bán cho nhà phân phối. Điều này có nghĩa là họ cần cung cấp nhiều dịch vụ hỗ trợ cho nhà phân phối, thúc đNy họ đưa hàng hóa đến tay người tiêu dùng nhanh hơn. Hay nói cách khác nhà sản xuất sử dụng chiến lược đNy, chẳng hạn như chương trình cổ động bán hàng để khuyến khích nhà phân phối mua sản phNm và thực hiện một chiến lược kéo để tạo ra nhu cầu cho khách hàng/người sử dụng cuối cùng. 3.3. Thiết kế kênh phân phối Hai quyết định quan trọng nhất trong chiến lược phân phối mà hãng cần phải cân nhắc là độ dài và độ sâu của kênh. Độ dài của kênh liên quan đến việc sử dụng các hình thức khác nhau của trung gian như: đại lý, nhà bán sỉ và bán lẻ trong khi độ sâu liên quan đến mức độ bao phủ của kênh được sắp xếp từ mức độ bao phủ hẹp (phân phối độc quyền hay phân phối chọn lọc) đến rộng (phân phối rộng rãi). Cuối cung, nhà sản xuất cũng phải cân nhắc để đưa các điều khoản cho kênh phân phối của mình. 3.3.1. Quyết định về cấp độ kênh phân phối Hình 11.2 thể hiện những cấp độ khác nhau trong kênh phân phối truyền thống đối với mặt hàng tiêu dùng, hàng kỹ nghệ và dịch vụ. Đây là những cấu trúc chung và chúng có thể khác nhau tùy theo từng ngành. Trong một số ngành, các trung gian sẽ bao gồm: đại lý, nhà bán sỉ và bán lẻ trong khi ở những ngành khác kênh phân phối sẽ ngắn hơn khi nhà sản xuất liên kết trực tiếp với khách hàng hay với một nhà bán lẻ. Khi tổ chức sử dụng nhiều hơn một kênh phân phối, người ta gọi đó là hệ thống phân phối hỗn hợp (hybrid distribution system). Hình 11.2: Các cấp độ phân phối của hàng tiêu dùng, hàng kỹ nghệ - Hàng tiêu dùng (B2C): Kênh phân phối trực tiếp N hà sản xuất N gười TD Kênh phân phối gián tiếp N hà sản xuất N hà bán lẻ N gười TD N gười TD N hà sản xuất N hà bán sỉ N hà bán lẻ N gười TD N hà sản xuất Văn phòng N hà bán sỉ N hà bán lẻ Hàng kỹ nghệ (B2B): Kênh phân phối trực tiếp N gười mua/ N hà sản xuất Tổ chức Kênh phân phối gián tiếp N gười mua/ N hà sản xuất N hà phân phối Tổ chức N gười mua/ N hà sản xuất Văn phòng Tổ chức N gười mua/ N hà sản xuất Văn phòng N hà phân phối Tổ chức Hàng tiêu dùng Độ dài của kênh phân phối tùy thuộc vào các nhân tố ảnh hưởng như loại hình sản phNm, các yếu tố thị trường và chu kỳ sống sản phNm. Đối với mặt hàng này, người ta có khuynh hướng sử dụng kênh dài bởi vì chúng cần được phân phối rộng rãi và vì chúng là những hàng hóa tiện lợi chủ yếu. Chẳng hạn, một nhà sản xuất bánh kẹo có thể thông qua nhà bán sỉ để phân phối các thanh kẹo sữa hay làm việc trực tiếp với những siêu thị lớn. Chúng ta gọi nhà sản xuất này sử dụng hệ thống phân phối gồm hai cấp. Thị trường càng phân tán về mặt địa lý, các hãng càng nên sử dụng hệ thống kênh dài. Khi tính sẵn sàng là nhân tố chủ yếu thúc đNy hành vi mua của khách hàng đối với mặt hàng tiêu dùng, các đối thủ cạnh tranh thường theo đuổi chiến lược phân phối rộng rãi trong các thị trường đại chúng. Chiến lược này cũng thích hợp đối với các loại hàng hóa tiện lợi (bao gồm hàng sử dụng thường xuyên, hàng mua ngẫu hứng và hàng mua khNn cấp) trong đó nhà sản xuất lựa chọn rất nhiều trung gian bán sỉ và bán lẻ khác nhau. Đối với chiến lược dựa trên kênh phân phối độc quyền, một trung gian duy nhất tại thị trường nào đó được lựa chọn để phân phối lại sản phNm. Giữa hai mức độ này là phân phối chọn lọc với một số lượng hạn chế các trung gian, thông thường đối với loại hàng hóa mua sắm và hàng đặc biệt (độc đáo). Hàng kỹ nghệ Marketing trực tiếp (bán hàng cá nhân, Internet, telemarketing và thư trực tiếp) là cách bán và phân phối thường được các nhà sản xuất sử dụng trên thị trường hàng kỹ nghệ. Tuy nhiên điều này còn tùy thuộc vào các yếu tố như bản chất của sản phNm, nỗ lực bán hàng và các yêu cầu về dịch vụ, cũng như khoảng cách về mặt địa lý. Đối với những sản phNm có mức độ đòi hỏi cao về kiến thức công nghệ, các dịch vụ hỗ trợ và những kỹ năng bán hàng chuyên nghiệp (trong thương lượng hay sự tế nhị với khách hàng) thì bán hàng trực tiếp tỏ ra hiệu quả hơn. Trong khi đó đại lý và nhà bán buôn thường được sử dụng cho những sản phNm có giá thấp và ít phức tạp hơn. Có hai dạng cấu trúc kênh đặc biệt mà những người làm marketing cần lưu ý. Kênh phân phối cho dịch vụ N hững nhà cung ứng dịch vụ như ngân hàng thường trực tiếp mang sản phNm của mình đến tay người sử dụng cuối cùng, trong khi các hãng hàng không hoặc bảo hiểm thường sử dụng đại lý hoặc nhà môi giới để bán sản phNm với một hệ thống kênh phân phối rộng rãi. N hư đã thảo luận trong phần đầu của chương, công nghệ đóng vai trò quan trọng nhất, quyết định sự thay đổi về bản chất của kênh phân phối, đặc biệt đối với ngành dịch vụ như ngân hàng (hệ thống ATM, các trang thiết bị điện thoại và Internet), du lịch với sự phát triển của hệ thống đặt vé trực tuyến qua các đại lý hoặc khách hàng có thể tự mình đặt vé trực tiếp đến nhà cung cấp dịch vụ hàng không. Các dịch vụ như du lịch hàng không, ngân hàng, giải trí, chăm sóc sức khỏe và bảo hiểm thường liên quan đến kênh phân phối. N hà cung ứng dịch vụ cung cấp dịch vụ đến người sử dụng cuối cùng không như cách sản phNm được sản xuất và chuyển đến khách hàng thông qua các nhà trung gian marketing. Vì vậy, mạng lưới phân phối cho dịch vụ khác với phân phối các sản phNm vật chất. Trong khi các kênh cho dịch vụ có thể không cần nhiều cấp (ví dụ như nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà bán lẻ) nhưng mạng lưới có thể phức tạp hơn. Xem xét kênh phân phối cho dịch vụ du lịch hàng không sẽ cho chúng ta hiểu rõ hơn một số đặc tính của các kênh phân phối dịch vụ. Trong khi hãng hàng không tạo ra dịch vụ, nhưng nó lại làm việc với nhiều đối tác phân phối. Vé có thể được bán thông qua các văn phòng du lịch độc lập, các văn phòng bán vé máy bay, thông qua điện thoại, trực tiếp từ trang web của hãng hàng không hoặc từ một hãng du lịch bán qua mạng. Hãng hàng không có sự dàn xếp phối hợp với các chuỗi khách sạn, các hãng taxi và các tour du lịch. Lực lượng bán hàng của hãng hàng không tiếp cận với các khách hàng tổ chức lớn, các hãng du lịch và các đối tác khác. Các công ty thẻ tín dụng cung cấp dịch vụ thanh toán và có thể tham gia vào chương trình khách hàng bay thường xuyên của hãng. Các kết hợp chiến lược với các hãng hàng không khác có thể phát triển độ bao phủ về mặt địa lý của hãng. Mục tiêu của kênh phân phối cho dịch vụ cũng giống như đối với sản phNm vật chất, mặc dù các chức năng được thực hiện có phần nào đó khác nhau. Dịch vụ thường được cung ứng khi có nhu cầu chứ không phải được sản xuất ra và lưu kho. Tương tự, dịch vụ có thể không được vận chuyển, mặc dù dịch vụ cung ứng có thể đi đến nơi của khách hàng để cung ứng. Xử lý và tồn kho thường không phải là vấn đề quan tâm trong lĩnh vực dịch vụ. Chức năng dịch vụ và sửa chữa có thể không áp dụng cho dịch vụ. Các chức năng khác đã thảo luận ở phần trước áp dụng cho cả dịch vụ và sản phNm vật chất, ví dụ như mua và bán, tài chính, quảng cáo và khuyến mãi, định giá, giảm thiểu rủi ro (bảo hiểm cho việc mất mát hành lý) và truyền thông. Phân phối trực tiếp bởi nhà sản xuất Chúng ta xem xét chiến lược kênh phân phối từ quan điểm của nhà sản xuất, mặc dù nhiều vấn đề chiến lược áp dụng cho công ty ở bất kỳ cấp độ nào trong kênh phân phối, bán sỉ hay bán lẻ. N hà sản xuất là duy nhất bởi vì họ có lựa chọn là bán trực tiếp đến người sử dụng cuối cùng thông qua lực lượng bán hàng của công ty hoặc phục vụ người sử dụng cuối cùng thông qua các trung gian marketing. N hà sản xuất có ba lựa chọn phân phối: (1) phân phối trực tiếp, (2) sử dụng trung gian và (3) cả hai lựa chọn trên đều khả thi. Kênh trực tiếp qua Internet được xếp vào cách (1) mở ra nhiều cơ hội cho các công ty. Các nhân tố tác động lên quyết định phân phối bao gồm: khách hàng, các đặc điểm của sản phNm, và các vấn đề về kiểm soát và tài chính. Khách hàng Các nhà sản xuất tìm kiếm số lượng và tần suất mua của khách hàng cũng như phần lợi nhuận biên sau khi trừ chi phí sản xuất còn lại để chi phí cho phân phối trực tiếp. N hu cầu của khách hàng về các thông tin về sản phNm và sự hỗ trợ sử dụng có thể xác định là lực lượng bán hàng của công ty hay các trung gian marketing độc lập có thể thỏa mãn nhu cầu khách hàng tốt nhất. Bán hàng trực tiếp của Dell, việc kinh doanh được thiết kế theo đơn đặt hàng đã chứng tỏ được là một mũi cạnh tranh cơ bản được hỗ trợ bởi công nghệ thông tin, Internet. Tuy nhiên, các mục tiêu của Dell là những khách hàng tổ chức và những khách hàng tương đối nhạy cảm và điều này tác động một cách đáng kể đến loại và mức độ dịch vụ cần thiết để hỗ trợ khách hàng. N hững khách hàng “sành điệu” hoặc những khách hàng sẵn sàng mua bán trên mạng Internet là một tiền đề quan trọng trong việc đánh giá tính khả thi của kênh phân phối trực tiếp qua Internet. Đặc điểm của sản phẩm Công ty thường xem xét các đặc tính của sản phNm trong việc quyết định là có nên sử dụng chiến lược phân phối trực tiếp hay không. Các sản phNm phức tạp và dịch vụ thường yêu cầu phải có sự tiếp xúc trực tiếp giữa khách hàng và nhà sản xuất, nhà sản xuất có thể phải cung cấp dịch vụ hỗ trợ sử dụng, dịch vụ và các hoạt động hỗ trợ khác. Chẳng hạn, thiết bị xử lý hóa chất, hệ thống máy tính chủ, máy kiểm tra ô nhiễm và các dịch vụ thiết kế thường được cung cấp trực tiếp đến người sử dụng cuối cùng thông qua lực lượng bán hàng của công ty. N hân tố khác là tập hợp các sản phNm mà công ty cung cấp. Một dòng sản phNm hoàn chỉnh có thể làm cho việc phân phối của công ty trở nên khả thi, trong khi chi phí của việc bán trực tiếp cho một sản phNm đơn lẻ có thể sẽ cao. Qui mô mua hàng cao có thể là điều kiện để việc phân phối trực tiếp trở nên khả thi cho một sản phNm đơn lẻ. Công ty với sự thiết kế sản phNm thay đổi vì công nghệ thay đổi nhanh chóng thường sử dụng cách tiếp cận bán trực tiếp. Cũng vậy, các trung gian marketing có chất lượng có thể không sẵn sàng vì tính phức tạp của sản phNm và những yêu cầu của các khách hàng. Tiếp xúc trực tiếp với người sử dụng cuối cùng cung cấp phản hồi cho nhà sản xuất về những nhu cầu sản phNm mới, các vấn đề và những sự quan tâm khác của họ. N hiều dịch vụ hỗ trợ có thể dựa trên công nghệ web. Trong ví dụ của Dell, trong khi sản phNm rất phức tạp, dịch vụ khách hàng được cung ứng đến những khách hàng tổ chức quan trọng thông qua trang web của Dell, trong khi các đường kết nối dịch vụ trực tuyến người sử dụng máy tính có thể kết nối với sự hỗ trợ của Dell (đối với các vấn đề đơn giản, máy tính có thể giải quyết mà không làm phiền đến khách hàng). - Các vấn đề về kiểm soát và tài chính Công ty cần phải quyết định là các nguồn lực có sẵn sàng cho phân phối trực tiếp hay không, và nếu có, liệu bán trực tiếp cho người sử dụng cuối cùng có phải là cách sử dụng tối ưu các nguồn lực? Cả chi phí lẫn nhu cầu, lợi ích sẽ được đánh giá. Phân phối trực tiếp tạo cho nhà sản xuất có thể kiểm soát việc phân phối, vì các tổ chức độc lập không thể quản lý được như cách công ty quản lý các nhân viên của mình. Đây có thể là một nhân tố quan trọng đối với nhà sản xuất. Hình sau làm rõ một số nhân tố khuyến khích việc phân phối trực tiếp bởi nhà sản xuất. Các nguồn lực tài chính của công ty và các khả năng tài chính cũng là những xem xét quan trọng. N hà sản xuất các sản phNm công nghiệp thường chuộng hình thức phân phối trực tiếp hơn là các nhà sản xuất sản phNm tiêu dùng. Vấn đề này được thực hiện bằng mạng lưới lực lượng bán hàng của công ty phục vụ các khách hàng cuối cùng hoặc hệ thống phân phối tích hợp theo chiều dọc (trung tâm phân phối và các nhà bán lẻ vệ tinh) trực thuộc chính nhà sản xuất. Công ty với các năng lực Internet vượt trội cũng có thể ưa thích kênh trực tiếp hơn so với những công ty khác. N hà sản xuất có thể quyết định là làm việc thông qua các trung gian nhằm tránh việc đầu tư cho việc bán hàng trực tiếp và để sử dụng các năng lực về kinh nghiệm của các tổ chức gia tăng giá trị. Hình 11.3: Các nhân tố tạo điều kiện cho việc phân phối trực tiếp Cơ hội cho các Thị trường Lợi nhuận biên lợi thế cạnh tranh thay đổi nhanh thích đáng để hỗ chóng trợ tổ chức PP Dòng sản phNm Các giai đoạn hoàn chỉnh đầu của CKS Phân phối trực tiếp bởi nhà sản xuất Mua hàng lớn Sản phNm và không phức tạp thường xuyên Số lượng nhỏ các Tiến trình mua Cần các dịch khách hàng tập hàng phức tạp vụ hỗ trợ trung về địa lý 3.3.2. Quyết định về độ bao phủ của kênh Với quyết định này, nhà sản xuất cần phải quyết định số lượng trung gian sẽ sử dụng ở mỗi cấp của kênh. Có ba chiến lược khác nhau để lựa chọn là phân phối độc quyền, chọn lọc và rộng rãi. Phân phối độc quyền xảy ra khi nhà sản xuất hay nhà cung ứng dịch vụ cho phép một trung gian duy nhất bán một sản phNm nào đó. Được tự do cạnh tranh trên thị trường với loại sản phNm này, trung gian phân phối độc quyền có thể thao túng và thu được lợi nhuận biên cao. Đó là chiến lược thường được sử dụng như là một phần của chiến lược dị biệt hóa đối với những sản phNm dành cho tầng lớp khách hàng thượng lưu, hoặc những sản phNm và dịch vụ đòi hỏi mức độ dịch vụ khách hàng cao như là phương tiện định vị với một hình ảnh thương hiệu độc đáo. Phân phối chọn lọc là chiến lược lựa chọn một số trung gian có khả năng đáp ứng những yêu cầu về hỗ trợ doanh số và dịch vụ. Khi những trung gian này mua về các nhãn hiệu cạnh tranh, công ty mong đợi chúng sẽ nhấn mạnh nhiều hơn vào việc cổ động và bán các sản phNm hay dịch vụ của công ty. Phân phối rộng rãi là chiến lược có mức độ bao phủ cao nhất, theo đó sản phNm hay dịch vụ được bán thông qua nhiều điểm bán. Chiến lược này thường được sử dụng cho những sản phNm như thuốc lá, xà phòng, thực phNm,... tức là những sản phNm mà khách hàng yêu cầu mức độ tiện lợi về không gian khi mua hàng rất cao. Các nhà sản xuất thường có xu hướng dịch chuyển từ việc phân phối độc quyền hoặc chọn lọc sang phân phối rộng rãi để tăng độ bao phủ và doanh thu. Chiến lược này có thể gặt hái được kết quả trong ngắn hạn nhưng nó lại khá nguy hiểm trong dài hạn, đặt biệt là việc mất quyền kiểm soát đối với việc bán hàng của công ty cũng như việc cung ứng dịch vụ cho khách hàng và việc định giá không được đảm bảo theo đúng kế hoạch. N goài ra, việc mở rộng độ bao phủ có thể khiến các trung gian cạnh tranh với nhau về giá mạnh mẽ hơn và điều này chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến danh tiếng của công ty. 3.3.3. Điều khoản và trách nhiệm của các thành viên kênh N hà sản xuất phải xác định quyền và trách nhiệm của các thành viên tham gia kênh. Mỗi thành viên kênh phải được đối xử một cách tôn trọng và được tạo cơ hội để kiếm lời. Các yếu tố cơ bản trong các điều khoản thương mại là chính sách giá, các điều kiện bán hàng, phân quyền về lãnh thổ bán hàng và các dịch vụ phải đảm nhiệm. Chính sách giá là do nhà sản xuất đưa ra với một danh sách giá và kế hoạch chiết khấu cũng như các khoản thưởng đảm bảo rằng các trung gian thấy công bằng và đủ. Các điều kiện bán hàng liên quan đến các điều khoản thanh toán và bảo hành của nhà sản xuất. Hầu hết các nhà sản xuất đều có chiết khấu tiền mặt cho các nhà phân phối trong thanh toán. Các nhà sản xuất cũng có thể bảo hành cho các nhà phân phối đối với những hàng hóa hỏng hóc hoặc giảm giá. Sự đảm bảo đối với việc giảm giá giúp các nhà phân phối có động cơ mua hàng với số lượng lớn. Phân quyền về lãnh thổ cho các nhà phân phối là xác định lãnh thổ và các điều khoản theo đó nhà sản xuất sẽ giao quyền kinh doanh theo lãnh thổ cho các nhà phân phối. Các nhà phân phối thường kỳ vọng nhận được sự giao quyền hoàn toàn đối với việc bán hàng trên lãnh thổ của mình. Trách nhiệm và các dịch vụ hỗ trợ là những điều khoản cần phải được cân nhắc thận trọng, đặc biệt là trong các kênh độc quyền và nhượng quyền. McDonald’s cung cấp các hợp đồng nhượng quyền với cửa hàng, các hỗ trợ truyền thông cổ động, hệ thống quản lý sổ sách, đào tạo và các hỗ trợ kỹ thuật và quản lý chung. N gược lại, những người được nhượng quyền phải thỏa mãn các tiêu chuNn của công ty về cơ sở vật chất, hợp tác với các chương trình cổ động mới của công ty, cung cấp các thông tin theo yêu cầu và mua hàng từ một số nhà cung cấp cụ thể do công ty chỉ định. HÀNH VI VÀ TỔ CHỨC KÊNH Kênh phân phối không đơn thuần chỉ là tập hợp các công ty gắn kết với nhau qua nhiều dòng dịch chuyển khác nhau. Chúng là một hệ thống có hành vi phức tạp, kết quả của sự liên kết các cá nhân và các tổ chức, trong đó mỗi thành viên giữ một vai trò riêng, chuyên thực hiện một hay nhiều chức năng và tương tác với các thành viên khác để đạt được mục tiêu của cá nhân, tổ chức và của kênh
    • M

      Thủ tục hải quan đối với hàng hóa vận tải đa phương thức quốc tế vận chuyển từ nước ngoài đến Việt Nam và giao trả hàng hoá cho người nhận hàng ở ngoài lãnh thổ Việt Nam
      Luật Hải quan • thủ tục hải quan vận chuyển nội địa vận tải đa phương thức • • MinhHHH  

      3
      0
      Votes
      3
      Posts
      1
      Views

      M

      Phân biệt rõ thêm Quá Cảnh và Vận chuyển đa phương thức Căn cứ Khoản 14, Điều 4 Luật Hải quan đã được sửa đổi, bổ sung năm 2005 giải thích từ ngữ quá cảnh “Quá cảnh”: “Quá cảnh” là việc chuyển hàng hóa, phương tiện vận tải từ một nước qua cửa khẩu vào lãnh thổ Việt Nam đến một nước khác hoặc trở về nước đó. Căn cứ Điều 2 Nghị định số 87/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ giải thích từ ngữ “Vận tải đa phương thức” và “Vận tải đa phương thức quốc tế” : “Vận tải đa phương thức” là việc vận chuyển hàng hóa bằng ít nhất hai phương thức vận tải khác nhau trên cơ sở hợp đồng vận tải đa phương thức. “Vận tải đa phương thức quốc tế” là vận tải đa phương thức từ nơi người kinh doanh vận tải đa phương thức tiếp nhận hàng hóa ở Việt Nam đến một địa điểm được chỉ định giao trả hàng ở nước khác và ngược lại. “Người kinh doanh vận tải đa phương thức” là doanh nghiệp hoặc hợp tác xã giao kết và tự chịu trách nhiệm thực hiện hợp đồng vận tải đa phương thức. Theo giải thích từ ngữ nêu trên thì hoạt động quá cảnh là hoạt động chuyển hàng hóa từ một nước qua cửa khẩu vào lãnh thổ Việt Nam. Các loại hàng hóa thuộc sở hữu của tổ chức, cá nhân nước ngoài, trừ các loại vũ khí, đạn dược, vật liệu nổ và các loại hàng hóa có độ nguy hiểm cao và hàng hóa thuộc danh mục cấm kinh doanh, cấm xuất khẩu, tạm ngừng xuất khẩu, hàng hóa cấm nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu, được quá cảnh lãnh thổ Việt Nam (nếu điều ước quốc tế mà Việt nam tham gia không có quy định khác) (Khoản 1, 2, 3 Điều 40 Nghị định 12/2006/NĐ-CP). Còn hoạt động kinh doanh vận tải đa phương thức là hoạt động kinh doanh vận chuyển hàng hóa bằng ít nhất hai phương thức vận tải khác nhau trên cơ sở hợp đồng vận tải đa phương thức. Như vậy, trường hợp Công ty chuyển hàng hóa quá cảnh qua lãnh thổ Việt Nam nếu có sử dụng phương thức vận tải đa phương thức, ngoài việc có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong đó có đăng ký ngành nghề kinh doanh vận tải đa phương thức quốc tế, cần phải có Giấy phép kinh doanh vận tải đa phương thức quốc tế. Công ty có thể nghiên cứu kỹ các quy định nói trên để thực hiện và liên hệ trực tiếp với Chi cục Hải quan nơi dự kiến làm thủ tục để được hướng dẫn chi tiết.
    • M

      Kinh nghiệm xuất hàng sang Nhật
      Nghiên cứu thị trường xuất nhập khẩu, logistics, học thuật, nghiên cứu và phát triển • thị trường logistics thủ tục xuất khẩu nghiên cứu thị trường • • MinhHHH  

      3
      0
      Votes
      3
      Posts
      1
      Views

      M

      Không gian Ngay cả khi giao tiếp trong thực tại ảo ngày càng diễn ra nhiều hơn, thì ở Nhật, bối cảnh giao tiếp vẫn là điều vô cùng quan trọng. Cuộc trò chuyện diễn ra ở đâu quan trọng đến nỗi nó có thể quyết định điều gì sẽ được nói hay chia sẻ, và điều gì thì không. Những người đến thăm Tokyo, Osaka hay bất cứ thành phố lớn nào ở Nhật đều thường kinh ngạc vì số lượng khổng lồ các quán bar và nhà hàng nhỏ ở đây. Ngoài việc mang lại những điều mà các quán bar, nhà hàng khắp nơi trên thế giới có, những địa điểm này còn đóng vai trò là nơi những người từ văn phòng có thể đến để trò chuyện về nhiều vấn đề, theo những cách không thể xảy ra trong giờ làm việc ở công sở. Người Nhật có sự phân biệt rõ ràng giữa những gì liên quan tới gia đình, nhóm trong trường, công ty (bên trong) và những vấn đề nằm ngoài phạm vi đó (bên ngoài). Bởi vậy, những hành vi được coi là phù hợp bên trong nhóm của ai đó có thể khá khác so với những tiêu chuẩn ứng xử thích hợp với người bên ngoài nhóm. Tiêu chuẩn kép này là điều có thể dự đoán. Giáo sư Chie Nakane mô tả các mối quan hệ của người Nhật được phân chia tương đối giữa ba phạm vi khác nhau: (1) trong những nhóm thân thiết nhất (uchi), bắt đầu với gia đình và bao gồm cả những nhóm gắn bó khăng khí khác; (2) trong môi trường xã hội của hôn nhân và hợp tác; (3) thế giới công cộng bên ngoài (soto) - những người lạ. Vì thế, sẽ không có gì là ngạc nhiên khi thấy một quý ông vừa tỏ ra lịch sự quá mức (trong một tình huống diễn ra trước đó) đang chen lấn lên tàu điện đông đúc. Do sự phân biệt giữa uchi và soto rất quan trọng cho bất cứ nhóm nào, từ tổ chức lớn tới các gia đình, người Nhật rất cẩn trọng trong việc cho phép ai gia nhập - nghĩa là, những người được công ty tuyển. Tuy nhiên, một khi đã được thừa nhận, người đó sẽ trở thành một phần của "chúng ta" và chắc chắn không bị thải loại. Tìm vị trí của mình Trong một căn phòng Nhật Bản truyền thống, sẽ có một "chỗ thấp" (shimoza) và một "chỗ cao" (kamiza). Người là khách mời danh dự, người lớn tuổi nhất trong gia đình, hay người có vị trí cao nhất trong tổ chức sẽ ngồi ở chỗ cao. Với khách nước ngoài, những người được đối xử như một vị khách, lời khuyên tốt nhất về chỗ ngồi là từ tốn và để cho chủ nhà hướng dẫn. Như vậy họ không cảm thấy thiếu thoải mái trong suốt buổi gặp hay bữa ăn vì chọn sai chỗ. Cách bài trí văn phòng điển hình của Nhật là một không gian mở với các bàn được xếp thành cụm, theo các hàng, và mọi người làm việc cạnh nhau, mỗi người đối diện với ai đó ở phía bên kia. Ngồi ở cuối phòng, nhìn bao quát toàn bộ văn phòng là vị quản lý. Trong một nền văn hoá nơi các biểu hiện không lời phổ biến có thể thể hiện nhiều hơn những gì được nói ra, văn phòng mở là một môi trường quan trọng cho việc truyền đạt thông tin. Thời gian Trong ngôn ngữ kinh doanh và chính trị, đôi khi người ta đùa rằng một kế hoạch dài hạn ở Mỹ tương đương với kế hoạch ngắn hạn ở Nhật. Ở Mỹ, “một thời gian dài” có thể là một năm, hay bốn quý của một năm tài chính. Ở Nhật, không hiếm khi “một thời gian dài” là ít nhất 30 năm. Tới gần đây, điều này vẫn là chu kỳ chuẩn bị cho một nhân viên làm việc cho một công ty. Trong một khảo sát về 31 nước có tầm nhìn lâu dài trong kinh doanh, Nhật Bản đứng thứ nhất, theo sau là Thụy Điển, Mỹ đứng thứ 19. Người Nhật không phân tách quá rõ ràng giờ làm việc với thời gian sau giờ làm như cách nhiều người Mỹ và phương Tây khác thường làm. Ở Nhật, người ta mong muốn và đánh giá cao việc chia sẻ thời gian với các đồng nghiệp, không chỉ trong giờ làm mà cả sau đó nữa. Làm quá giờ ở công sở là chuyện không có gì lạ, không mong đợi được thưởng thêm. Trong một số trường hợp, đơn giản là công việc đòi hỏi phải làm thêm giờ, nhưng trong các trường hợp khác thì chính sự trân trọng mối quan hệ với đồng nghiệp đòi hỏi phải “ở lại ngoài giờ”. Vậy mất bao lâu thì một người nước ngoài hòa nhập được vào một tổ chức của Nhật? Mất bao lâu để trở thành một nhân viên hiệu quả và có cống hiến trong một tổ chức? Câu trả lời từ các giám sát người Nhật là “khoảng một tuần” tới “vài tháng”, tùy vào tính cách của thực tập sinh. Tuy vậy, trên thực tế, ngay cả một kỹ sư người Nhật cũng mất chừng 5 năm trước khi đạt yêu cầu, với “hành trình” cụ thể là: Sẽ mất một năm để thành thạo ngôn ngữ, bao gồm các từ chuyên môn. Trong năm thứ hai, một nghiên cứu viên mới sẽ tìm hiểu về tổ chức. Ở năm thứ ba, họ sẽ tìm hiểu vị trí của mình trong tổ chức. Sau đó, họ có thể bắt đầu nghiên cứu của riêng mình và có được kết quả trong khoảng năm thứ năm. Một giám sát người Nhật cho biết: “Nếu ai đó muốn năng động trong kinh doanh, nhất thiết phải thông thạo tiếng Nhật. Tôi thậm chí không để sinh viên Nhật mới ra trường được làm việc với khách hàng. Những người Nhật trẻ mới chỉ sử dụng những cụm từ quen thuộc và các chữ viết tắt họ nghe thấy trên các chương trình truyền hình, nên phải mất 4 đến 5 năm để học tiếng Nhật tử tế trước khi họ làm việc với khách hàng của chúng tôi. Ngay cả nếu một thực tập sinh nước ngoài có một tấm bằng trên đại học, thì việc tới công ty chúng tôi không phải là bắt đầu sự nghiệp, mà chỉ là bước đầu tiến tới sự nghiệp. Với những nhân viên mới người Nhật cũng vậy, sẽ mất ít nhất là 5 năm. Phản hồi Một giám sát người Nhật giải thích quan điểm về vấn đề phản hồi: “Chúng tôi không nghĩ phản hồi là điều cần thiết. Tôi nghĩ đó là khác biệt về văn hóa. Ở Nhật, nếu chúng tôi không có bất cứ phàn nàn hay nhận xét cụ thể nào, điều đó đồng nghĩa với sự đánh giá tốt nhất. Nhưng có vẻ như với những người đến từ Mỹ, nếu không có nhận xét, họ sẽ nghĩ là có vấn đề”. Các quản lý người Mỹ khen ngợi các nhân viên làm việc tốt, và coi việc khen ngợi là một yếu tố quan trọng để khuyến khích người Mỹ ở nơi làm việc. Nhật Bản cũng có thể ca ngợi ai đó ở nơi công cộng, nhưng vì những lý do khác và hiếm hoi hơn. Người Nhật ca ngợi công khai để nâng cao thể diện, trong khi người Mỹ khen ngợi là để khuyến khích chất lượng hoạt động. Loại ngôn từ được sử dụng để ca ngợi giữa các nền văn hóa cũng khác nhau. Những từ ở mức so sánh cao nhất như “tuyệt vời”, “làm quá tốt”, “thành tựu xuất sắc” được thể hiện quá thường xuyên sẽ khiến người châu Á thấy rỗng tuếch. Học hỏi qua công việc Học hỏi, và học hỏi không ngừng. Đây là một trong những giá trị quan trọng nhất ở Nhật Bản từ xưa đến nay. Giống như ở nhiều nơi trên thế giới, giáo viên được coi trọng và tôn vinh rất lâu sau khi các lứa học sinh của họ trưởng thành và đi theo con đường riêng. Phương pháp học tập là điểm tiết lộ nhiều về văn hóa và mối quan hệ giữa các nền văn hóa. Nhà nhân chủng học Edward T.Hall phân biệt 3 loại hình học tập: chính thống, kỹ thuật và không chính thống. Ở Nhật Bản, mỗi loại đóng một vai trò quan trọng trong công sở và phòng thí nghiệm, cũng như trong lớp học. Phương pháp học tập chính thống bao gồm giáo viên và học sinh. Ở công sở, giáo viên có thể là người giám sát hoặc một đồng nghiệp có nhiều kinh nghiệm hơn. Khi ai đó lần đầu học tập trong mối quan hệ chính thống, việc người học đặt ra câu hỏi về những vấn đề chưa thực sự hiểu rõ được cho là phù hợp, thậm chí được mong đợi. (Tuy nhiên, không nên lặp lại cùng một câu hỏi quá nhiều lần). Ở các công ty của Nhật Bản, năm đầu tiên làm việc của nhân viên là thời gian phù hợp để đưa ra các câu hỏi. Phương pháp học tập chính thống đạt hiệu quả khi mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh được thiết lập rõ ràng. Phương pháp kỹ thuật cũng hướng tới cách thức đúng đắn hoặc cách tốt nhất để làm điều gì đó, nhưng ở dạng thức không cần tới sự có mặt của một giáo viên trực tiếp giảng dạy. Giọng nói mô phỏng một ngoại ngữ mà ai đó đang học là một ví dụ về phương pháp học “kỹ thuật”. Càng ngày người ta càng học theo hình thức khách quan này nhiều hơn. Khi tập làm quen với phong cách làm việc ở một nền văn hóa khác, phương pháp học phi chính thống là hình thức quan trọng nhất. Đây là hình thức học thông qua quan sát và thử sai. Quan sát là bí quyết của phương pháp học không chính thống. Người được đánh giá cao là người tiếp thu một cách nhanh chóng. “Sasshi ga hayai” là lời khen ngợi ở Nhật. Ngày làm việc của người Nhật không kết thúc lúc 5 giờ chiều. Thông thường mọi người ở lại văn phòng cho đến buổi tối, và đây là khoảng thời gian họ cảm thấy thoải mái nhất. Thời điểm này trở thành thời gian dành cho việc học phi chính thống - cách thức đã được chứng minh hiệu quả nhất đối với những người nước ngoài hay người mới tham gia vào một tổ chức ở Nhật. Đó là lúc họ có thể tìm hiểu về mọi người và tổ chức theo cách không thể thực hiện trong thời gian làm việc chính thức. Đặt câu hỏi là một phần trong phương thức học chính thống; học tập thông qua việc đặt câu hỏi là một phần của hình thức học phi chính thống. Tuy nhiên, Hall đã khuyên những ai tới làm việc ở Nhật là cố gắng tìm ra phương pháp vận hành của sự việc bằng cách quan sát, bởi lẽ không ai có thể trả lời câu hỏi cho bạn, vì họ chỉ là một phần trong cả chuỗi vận hành. Có một lý do khác cho việc không đặt những loại câu hỏi nhất định. Giáo sư Kichiro Hayashi khuyên những ai tới Nhật làm việc không nên đặt câu hỏi, bởi vì ở Nhật, sự chú tâm tới mọi việc có thể quan trọng hơn phát ngôn. Khả năng cảm nhận được tâm trạng, chú ý tới dáng vẻ và thái độ của người khác, và nhận thức được chuyện gì đang diễn ra, khả năng liên tục kiểm tra, xác nhận, hoặc thay đổi ấn tượng của mọi người được đánh giá cao ở Nhật. Hòa hợp với nhịp điệu của năm Văn hóa làm việc của người Nhật chú trọng tới sự bắt đầu và kết thúc của năm. Ngày làm việc đầu tiên của năm thường yêu cầu sự chú ý đặc biệt tới cách ăn mặc và có thể có bài phát biểu của cán bộ công ty. Ngày làm việc cuối cùng của năm thường là ngày nhân viên dọn dẹp sạch sẽ văn phòng, khu vực làm việc trước khi về nghỉ năm mới. Ngày đầu năm mới là ngày đầu tiên của tháng Một. Nhưng năm làm việc mới của Nhật bắt đầu vào tháng Tư, cũng giống như năm học mới. Các nhân viên mới được tuyển dụng bắt đầu làm việc từ tháng Tư. Kinh nghiệm làm việc của người tới Nhật bắt đầu từ tháng Tư sẽ rất khác với kinh nghiệm làm việc của người đến vào tháng Tám – thời điểm cường độ công việc chậm nhất trong năm. Người nước ngoài tới Nhật làm việc cần chú ý và hòa nhập vào các ngày nghỉ lễ và sự kiện ở đây. Bảy gợi ý khi làm việc ở Nhật Bản 1/ Hãy ghi nhớ điểm thu hút bạn đầu tiên ở Nhật Bản. Đó có thể là những điều không liên quan đến công việc, nhưng chúng có thể mang lại điểm kết nối. Hãy nghiêm túc theo đuổi những sở thích của bạn với những người cũng nghiêm túc, nhưng ở môi trường bên ngoài công sở. 2/ Duy trì học tiếng Nhật. Cảm giác bất ổn về khả năng ngôn ngữ là điều bình thường. Thời điểm giữa lúc chính thức kết thúc ngày làm việc và lúc mọi người ra về là khoảng thời gian có thể đề nghị được giúp đỡ trong việc học tiếng. Đây cũng là dấu hiệu cho thấy thái độ nghiêm túc của bạn, và có thể thể hiện sự cởi mở với mọi người để được họ khuyến khích và giúp đỡ. 3/ Tiếng Anh được sử dụng ở đây. Giúp đỡ đồng nghiệp về tiếng Anh thường là một phần trong những vai trò công ty mong đợi đối với những nhân viên người nước ngoài. 4/ Nói về đồ ăn. Với những ai tới làm việc và sống ở Nhật, chủ đề ẩm thực là chủ đề tốt nhất để tham gia và thể hiện sự hiếu kỳ và trân trọng, cũng là thời điểm để học hỏi được nhiều điều và tạo các mối liên kết cá nhân. 5/ “Tôi để ý thấy trên truyền hình…”. Bất kỳ ai đến làm việc ở Nhật cũng được khuyên nên chú ý một chút tới mốt mới nhất – một xu hướng đang thịnh hành nhất. Phong độ của đội bóng chày yêu thích của địa phương, ca sĩ, diễn viên, thậm chí thần tượng tuổi teen – những thứ có thể thấy trên truyền hình - thể hiện bạn có nhận biết về những chuyện đang diễn ra bên ngoài công sở. Nó có thể trở thành đề tài dẫn đến một cuộc trò chuyện thú vị với người địa phương, đồng nghiệp. 6/ Có sổ ghi chép. Hầu hết những điều diễn ra trong một môi trường mới đều xứng đáng được ghi chú lại, cho dù dưới dạng thức nào. 7/ Kết bạn. Những điều bạn có thể học hỏi được khi nói chuyện với bạn bè nhiều hơn bất kỳ khóa học nào. Không phải thông tin kỹ thuật hay thông tin được chuyên biệt hóa trong công sở, mà giao tiếp và mối quan hệ mới là những điều quan trọng đặc biệt. Một số thuật ngữ hữu dụng cần biết khi tới Nhật làm việc: Hội họp Chõrei (triều lễ): Một số công ty sáng nào cũng họp chõrei, trong khi các công ty khác lại thực hiện vào thứ Hai hằng tuần. Tất cả nhân viên trong phòng hay một bộ phận lớn hơn sẽ tập hợp lại và họp ngắn về những thông báo chung. Kaigi (họp chính thức): Kaigi ở Nhật nổi tiếng vì kéo dài vài giờ đồng hồ. Jũyaku kaigi là cuộc họp lãnh đạo. Mitingu (họp mặt): Người Nhật mượn từ trong tiếng Anh. Từ này có thể được sử dụng thay cho kaigi hay uchiawase, mũting nghe thân mật hơn kaigi. Uchiawase: Kiểu họp mặt này là để lên kế hoạch thực tế hay chia sẻ thông tin. Từ này có thể được sử dụng cho cả các cuộc họp trong công ty và với đối tác kinh doanh. Chức danh và mối quan hệ Shachõ: Chủ tịch công ty. Buchõ: Giám đốc bộ phận. Kachõ: Trưởng phòng. Kakarichõ: Trưởng bộ phận. Shinnyũ-shain / Shinjin: Nhân viên mới tuyển, thường là những người mới ra trường. Jõchi và buka: Jõchi là người giám sát, buka là cấp dưới. Senpai và kõhai: Trong bối cảnh công việc, một senpai là người vào công ty trước bạn và/hoặc có nhiều kinh nghiệm hơn; kõhai là người vào công ty sau bạn và thường trẻ hơn bạn. Dõkisei/dõki: Trong bối cảnh công việc, những nhân viên bắt đầu cùng một lúc ở cùng một công ty. Torihiki-saki: Những công ty khác nhau làm ăn với công ty của bạn. Đôi khi một công ty như thế còn được gọi là Torihikisaki-san, như thể là một người vậy. Kiểu nhân viên Shain: Nhân viên công ty. Sai-shain: Nhân viên toàn thời gian. Theo truyền thống, địa vị sai-shain ở Nhật nghĩa là “nhân viên trọn đời”. Keiyaku-shain: Nhân viên hợp đồng có thể được xếp vào hạng mục này. Keiyahu-shain được công ty tuyển trực tiếp hoặc được một công ty dịch vụ nhân sự gửi tới. Lương của họ được trả theo giờ và bảo hiểm hay các gói bồi thường của họ khác so với những người làm toàn thời gian. Kenshũ-sei: Thực tập sinh. Trong các tổ chức của Nhật, ngay cả nếu kenshũ-sei được tuyển vào các vị trí toàn thời gian, thì mấy tháng đầu vẫn là “thời gian thử thách”. Vì thế, họ có thể được gọi là kenshũ-sei hoặc shinnyũ-shain / shinjin (nhân viên mới). Arubaito (Albait): Nhân viên bán thời gian. Albait tương tự như keiyaku-shain, vì lương của họ được trả theo giờ. Tuy nhiên, lịch làm việc của albeit kém ổn định hơn và thường ám chỉ một vị trí tạm thời. Các công việc bán thời gian cho sinh viên đại học được xếp vào dạng này. O.L: Nhân viên nữ. Các buổi tiệc nơi làm việc Kangei-kai: Tiệc chào mừng. Sõbetsu-kai: Tiệc chia tay. Bõnen-kai: Tiệc cuối năm. Shinnen-kai: Tiệc năm mới. PHƯƠNG THANH tóm tắt
    • M

      Điều kiện bảo hiểm đối với hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển
      Chứng từ, tài liệu ( CO, Incoterm, Bảo hiểm, Hợp đồng, Luật TMQT ...) • vận chuyển quốc tế vận chuyển đường biển bảo hiểm • • MinhHHH  

      3
      0
      Votes
      3
      Posts
      1
      Views

      M

      Điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển Điều kiện bảo hiểm là những điều quy định phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm đối với những rủi ro tổn thất của đối tượng bảo hiểm. Vì vậy, phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm phụ thuộc vào các điều kiện bảo hiểm mà các bên thoả thuận trong hợp đồng. Trách nhiệm của người bảo hiểm đối với hàng hoá theo các điều kiện bảo hiểm gốc của Việt Nam được quy định theo bản Quy tắc chung về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển năm 1990 do Bộ Tài chính ban hành. Quy tắc này được xây dựng trên cơ sở điều khoản ICC ngày 1/1/1982 của Viện những người bảo hiểm London (Institute of London Underwriters - ILU). Vì các điều kiện này được áp dụng ở hầu hết các nước trên thế giới thay thế các điều kiện cũ ICC-1963 và trở thành tập quán thông dụng quốc tế. Nó bao gồm các điều kiện sau: Institute cargo clauses C (ICC-C) - điều kiện bảo hiểm C Institute cargo clauses B (ICC-B) - điều kiện bảo hiểm B Institute cargo clauses A(ICC-A) - điều kiện bảo hiểm A Institute war clauses - điều kiện bảo hiểm chiến tranh Institute strikes clauses - điều kiện bảo hiểm đình công
    • T

      Những điều cần biết về Hiệp định EVFTA tại Việt Nam
      Kiến thức logistics, giao nhận vận tải và xuất nhập khẩu • kiến thức logistics evfta • • Thủ tục hải quan  

      3
      0
      Votes
      3
      Posts
      3
      Views

      T

      III. NHÓM CÂU HỎI VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH Câu hỏi 13. Trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 đã và đang gây ra một cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, Hiệp định EVFTA đóng vai trò như thế nào trong việc giúp hồi phục nền kinh tế Việt Nam? Dịch COVID-19 đã ảnh hưởng mạnh đến tình hình sản xuất và xuất nhập khẩu của không chỉ Việt Nam mà trên toàn thế giới. Nhiều chuyên gia kinh tế còn nhận định rằng tăng trưởng kinh tế năm nay sẽ không đạt được mục tiêu đã đề ra. Trong bối cảnh đó, việc Hiệp định EVFTA được đưa vào thực thi mang ý nghĩa quan trọng giúp bù đắp sự suy giảm của nền kinh tế trong giai đoạn dịch bệnh. Từ phía doanh nghiệp, EVFTA còn được khẳng định là cứu cánh mang đến cơ hội thị trường đa dạng hơn cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp lấy lại đà tăng trưởng hậu dịch bệnh. Thực tế thời gian qua, doanh nghiệp trong nước còn loay hoay tại thị trường châu Âu do cạnh tranh đến từ các nền công nghiệp quy mô khác trên thế giới, đặc biệt là Trung Quốc. Giá sản phẩm của Việt Nam thường cao hơn 10-20% so với nước bạn. Do vậy, thị phần hàng hóa của Việt Nam tại EU còn khiêm tốn. Trong khi đó, EU là thị trường nhập khẩu lớn thứ 2 thế giới. Hàng năm, EU nhập khẩu khoảng 2.338 tỷ USD, trong khi thị phần xuất khẩu của Việt Nam ở EU khoảng 2% với chỉ hơn 42% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU được hưởng mức thuế 0% theo Chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP). Do đó với những cam kết mở cửa thị trường mạnh mẽ, cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu lên tới gần 100% biểu thuế trong EVFTA, cơ hội gia tăng xuất khẩu của nước ta là rất lớn, nhất là đối với những mặt hàng lợi thế như dệt may, da giày, nông thủy sản, đồ gỗ... Nghiên cứu cho thấy Hiệp định EVFTA sẽ giúp kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU tăng thêm khoảng 20% vào năm 2020; 42,7% vào năm 2025 và 44,37% vào năm 2030 so với không có hiệp định. Đồng thời, kim ngạch nhập khẩu từ EU cũng tăng nhưng với tốc độ thấp hơn xuất khẩu, cụ thể là khoảng 15,28% vào năm 2020; 33,06% vào năm 2025 và 36,7% vào năm 2030. Về mặt vĩ mô, EVFTA góp phần làm GDP của Việt Nam tăng thêm ở mức bình quân 2,18 - 3,25% (năm 2019 - 2023); 4,57 - 5,30% (năm 2024 - 2028) và 7,07 - 7,72% (năm 2029 - 2033). Bên cạnh đó, về nhập khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ được lợi từ nguồn hàng hóa, nguyên liệu nhập khẩu với chất lượng tốt và ổn định với mức giá hợp lý hơn từ EU. Như vậy, giai đoạn hậu dịch bệnh, nếu Hiệp định EVFTA được đưa vào thực thi, doanh nghiệp Việt Nam đã có trong tay lợi thế rất lớn từ việc giảm/xóa bỏ hàng rào thuế quan vào thị trường EU để khai thác thị trường 18 nghìn tỷ USD này. Tương tự về nhập khẩu, doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ được lợi từ nguồn hàng hóa, nguyên liệu nhập khẩu với chất lượng tốt và ổn định với mức giá hợp lý hơn từ EU, đặc biệt là nguồn máy móc, thiết bị, công nghệ/kỹ thuật cao từ các nước EU sẽ giúp nâng cao năng suất và cải thiện chất lượng sản phẩm của ta. Ngoài ra, khi hàng hóa, dịch vụ từ EU nhập khẩu vào Việt Nam sẽ tạo ra một sức ép cạnh tranh để doanh nghiệp Việt Nam nỗ lực cải thiện năng lực cạnh tranh. Đáng chú ý, với EVFTA chuỗi giá trị mới của Việt Nam với một đối tác quan trọng trên thế giới sẽ được hình thành. Môi trường đầu tư mở hơn và thuận lợi hơn, khi triển vọng xuất khẩu hấp dẫn hơn sẽ thu hút đầu tư FDI từ EU vào Việt Nam nhiều hơn, đặc biệt là các lĩnh vực như dịch vụ, tài chính, ô tô, chế biến chế tạo, công nghệ thông tin, công nghệ cao, nông sản thực phẩm chế biến... Gắn với đó, những yêu cầu đặt ra trong cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thể chế, chính sách pháp luật sau đường biên giới... theo hướng minh bạch hơn, thuận lợi và phù hợp hơn với thông lệ quốc tế sẽ là những tiền đề quan trọng đưa Việt Nam tăng tốc phát triển lên một tầm cao mới. Câu hỏi 14. Đề nghị đánh giá tác động kỹ hơn của Hiệp định EVFTA trong bối cảnh dịch Covid-19, đặc biệt là tới tăng trưởng, các ngành nghề, việc làm, an sinh xã hội. Hiện nay dịch Covid-19 vẫn đang diễn biến rất phức tạp, đặc biệt là tại các nước châu Âu và những đối tác thương mại chính của Việt Nam. Do vậy, việc đánh giá tổng thể và toàn diện tác động của việc thực thi EVFTA gắn với bối cảnh của dịch Covid-19 cần nhiều thời gian và nguồn lực. Do vậy, Bộ Công Thương sẽ kiến nghị Chính phủ đưa nội dung công việc này vào Kế hoạch thực thi EVFTA để triển khai với sự tham gia của các Bộ, ngành có liên quan ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực để từ đó có những kiến nghị về biện pháp đối phó phù hợp. Câu hỏi 15: EVFTA có tác động tới lao động, việc làm, an sinh, xã hội như thế nào? Các cam kết về lao động đặt ra thách thức gì? Theo nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hiệp định EVFTA dự kiến giúp tăng thêm việc làm khoảng 146.000/năm, tập trung vào những ngành thâm dụng lao động và có tốc độ xuất khẩu cao sang thị trường EU. Mức tăng thêm việc làm trong một số ngành dự kiến như sau: dệt may tăng 71.300 (năm 2025) và 72.600 (năm 2030) mức tăng tương ứng so với năm 2018 là 1,2%, 2,3% và 2,4%; ngành da giày có tốc độ tăng việc làm là 4,3% và 3,8% vào các năm 2025 và 2030. Một số ngành khác cũng có số lượng việc làm tăng cao là vận tải hàng không (1,5% vào năm 2025), vận tải thuỷ (0,9% vào năm 2025). Tuy nhiên một số ngành sẽ chịu tác động giảm việc làm như ngành lâm nghiệp, khai khoáng, sản xuất lúa gạo với mức giảm từ 0,26 đến 0,36%/năm. EVFTA không chỉ mang lại lợi ích về số lượng việc làm mà còn có khả năng làm tăng tiền lương của người lao động thông qua hoạt động của thị trường hiệu quả hơn và tác động lan toả về tiền lương từ các doanh nghiệp FDI. Theo tính toán, mức lương của các doanh nghiệp FDI sẽ cao hơn khoảng gần 1% so với doanh nghiệp trong nước. Bên cạnh đó, do các nền kinh tế của các nước thành viên EU đều phát triển ở trình độ cao hơn Việt Nam và mang tính bổ sung đối với nền kinh tế Việt Nam, nhập khẩu từ các nước EU phần lớn là không cạnh tranh trực tiếp, nên với một lộ trình giảm thuế hợp lý, kết hợp với hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội, ta có thể xử lý được các vấn đề xã hội nảy sinh do tham gia EVFTA. Đặc biệt, do EVFTA bao gồm cả các cam kết về bảo vệ môi trường nên tiến trình mở cửa, tự do hóa thương mại và thu hút đầu tư sẽ được thực hiện theo cách thân thiện với môi trường hơn, giúp ta tăng trưởng bền vững hơn. Bên cạnh đó, các cam kết về lao động trong đó bao gồm việc cho phép thành lập tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp hay việc thành lập Nhóm tư vấn trong nước (DAG) để thực thi các cam kết về thương mại và phát triển bền vững với sự tham gia của đại diện người lao động, đại diện các doanh nghiệp, các nhà khoa học và các tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam có thể làm gia tăng sức ép về giám sát xã hội trong quá trình thực thi Hiệp định và từ đó đặt ra những thách thức nhất định đối với Việt Nam. Câu hỏi 16. Hiệp định EVFTA sẽ có những tác động gì đến công cuộc xóa đối giảm nghèo của Việt Nam? Theo kết quả nghiên cứu của Báo cáo “Việt Nam: Tăng cường hội nhập quốc tế và thực thi EVFTA” do Ngân hàng Thế giới thực hiện vào cuối tháng 4 vừa qua, EVFTA sẽ giúp Việt Nam giảm nghèo nhanh hơn. Cụ thể, Hiệp định sẽ giúp làm tăng thêm 0,8 triệu người thoát nghèo vào năm 2030, tương đương với mức giảm tỷ lệ nghèo 0,7%. Hiệp định này cũng có khả năng giúp thu hẹp khoảng cách tiền lương giữa các giới thêm 0,15%, đặc biệt cho các hộ gia đình thuộc nhóm 40% có thu nhập thấp nhất. Câu hỏi 17: Hiệp định EVFTA sẽ có những tác động như thế nào đến người nông dân và ngành nông nghiệp Việt Nam? Ngành nông nghiệp được dự báo là một trong những ngành được hưởng lợi lớn nhất từ Hiệp định EVFTA. Khi EVFTA có hiệu lực, nhiều mặt hàng của Việt Nam sẽ được giảm thuế về 0% như: gạo tấm, các sản phẩm từ hạt… Đối với mặt hàng rau củ quả, EU cũng cam kết xóa bỏ thuế khi EVFTA có hiệu lực. Đối với thuỷ sản, khoảng 50% số dòng thuế sẽ được xoá bỏ, 50% dòng thuế còn lại cũng sẽ được xoá bỏ trong lộ trình 5 – 7 năm. Theo dự báo, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của một số ngành nông sản sẽ tăng đáng kể cho tới năm 2025 nhờ EVFTA, ví dụ như gạo (tăng thêm 65% vào năm 2025), đường (8%), thịt lợn (4%), lâm sản (3%), thịt gia súc gia cầm (4%), đồ uống và thuốc lá (5%). Ở một khía cạnh khác, hội nhập cũng tạo thêm việc làm giúp người nông dân chuyển đổi từ nông nghiệp sang các lĩnh vực khác, góp phần cải thiện đời sống cho người nông dân. Một cơ hội khác mà Hiệp định EVFTA mang lại cho ngành nông nghiệp Việt Nam là việc thu hút các dự án đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp, giúp chuyển giao công nghệ, cách thức tổ chức sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp, từ đó giúp tăng sản lượng, chất lượng nông sản, giúp nông sản Việt Nam tiến dần tới các tiêu chuẩn khắt khe của thị trường châu Âu. Tuy nhiên, để nắm bắt được các cơ hội này không phải là dễ dàng. Cửa đã mở nhưng để có thể thông hành, hàng nông sản của ta còn cần phải vượt qua nhiều rào cản như hàng rào kỹ thuật của EU về nguồn gốc xuất xứ, chất lượng sản phẩm, hay vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ… Với tính chất sản xuất nông nghiệp còn manh mún, nhỏ lẻ, người nông dân và doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp lại càng phải chủ động đẩy mạnh nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm, tìm kiếm thị trường, xây dựng thương hiệu cho sản phẩm nông sản Việt Nam. Câu hỏi 18. Hiệp định EVFTA sẽ có những ảnh hưởng như thế nào đến thị phần của các doanh nghiệp trong nước trước sự cạnh tranh từ các doanh nghiệp EU? Trong các báo cáo đánh giá tác động của Hiệp định EVFTA, một thách thức luôn được đề cập đến là sự gia tăng áp lực cạnh tranh đối với hàng hóa trong nước do dòng hàng chất lượng cao từ châu Âu được mở rộng cửa vào thị trường Việt Nam. Tuy nhiên, cần xét đến các yếu tố bao gồm: cơ cấu kinh tế của EU và của ta mang tính bổ sung cho nhau, không đối đầu trực tiếp và cam kết mở cửa thị trường của Việt Nam có lộ trình, đặc biệt với những nhóm sản phẩm nhạy cảm, do đó, sức ép cạnh tranh mà Hiệp định EVFTA mang đến là sức ép lành mạnh, hợp lý, có chọn lọc và theo lộ trình phù hợp. Ngoài ra, cần nhìn nhận rằng cạnh tranh luôn có tính hai mặt rõ ràng. Một mặt, cạnh tranh sẽ rất tiêu cực đối với các doanh nghiệp yếu kém, nhất là các doanh nghiệp vẫn dựa vào sự bao cấp của Nhà nước, các doanh nghiệp có công nghệ sản xuất và kinh doanh lạc hậu. Mặt khác, cạnh tranh mang lại động lực cho các doanh nghiệp liên tục đổi mới và sáng tạo, đồng thời tạo ra thêm nhiều sự lựa chọn cho người tiêu dùng. Đây là con đường mà sớm hay muộn ta cũng phải đi qua để đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành công, theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, chất lượng và hiệu quả của tăng trưởng kinh tế. Câu hỏi 19. Nếu Hiệp định EVFTA có hiệu lực, dự kiến ngành nào sẽ được hưởng lợi nhiều nhất và ngành nào sẽ chịu sức ép nhiều nhất từ Hiệp định này? Theo nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nếu các cam kết về cắt giảm thuế quan và phi thuế quan được thực thi triệt để, kết hợp với một số yếu tố từ chiến tranh thương mại, việc Anh rời khỏi EU (Brexit), sự thay đổi chính sách của các nước…, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ được cải thiện trong cả ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Kết quả tính toán chỉ ra rằng EVFTA dự kiến sẽ góp phần làm GDP tăng thêm ở mức bình quân từ 2,18 đến 3,25% (cho giai đoạn 05 năm đầu thực hiện), 4,57-5,30% (cho giai đoạn 05 năm tiếp theo) và 7,07-7,72% (cho giai đoạn 05 năm sau đó). Về xuất khẩu, EVFTA dự kiến giúp kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU tăng thêm khoảng 42,7% vào năm 2025 và 44,37% vào năm 2030 so với không có Hiệp định. Xét theo ngành hàng, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của một số ngành sang EU dự kiến sẽ đạt kết quả tăng trưởng cao đối với các ngành như sau: Ngành nông thủy sản: EVFTA sẽ đem lại tiềm năng thị trường lớn cho xuất khẩu nông thủy sản tại Việt Nam, cụ thể là gạo (tăng thêm 65% vào năm 2025), đường (8%), thịt lợn (4%), lâm sản (3%), thịt gia súc gia cầm (4%), đồ uống và thuốc lá (5%) và thủy sản (2% trong giai đoạn 2020-2030). Ngành chế biến chế tạo: Đối với ngành dệt may, dự báo kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU sẽ tăng nhanh với mức khoảng 67% đến năm 2025 so với kịch bản không có Hiệp định. Về sản lượng, nhìn chung EVFTA có tác động tích cực tới sản lượng với tốc độ tăng 6% (với ngành dệt) và 14% (với ngành may) vào năm 2030. Đối với ngành da giầy, Hiệp định khi có hiệu lực sẽ góp phần làm gia tăng đáng kể xuất khẩu giày da vào EU. Tốc độ tăng xuất khẩu vào EU dự báo sẽ gấp đôi vào 2025, và tổng xuất khẩu giày da cũng sẽ tăng khoảng 34%, sản lượng của toàn ngành tăng ở mức 31,8%. Ở chiều ngược lại, các cam kết trong Hiệp định EVFTA cũng sẽ tạo ra sức ép cạnh tranh lớn hơn cho ta trong một số ngành như sau: Ngành dược phẩm: Cam kết của EVFTA về thuế quan đối với dược phẩm có thể không tạo ra thay đổi gì lớn trong tương lai gần đối với việc xuất, nhập khẩu dược phẩm giữa Việt Nam và EU. Tuy nhiên, các cam kết liên quan tới dược phẩm ở các khía cạnh khác sẽ có tác động đáng kể tới thị trường và doanh nghiệp dược Việt Nam khi EVFTA có hiệu lực, theo hướng: (1) dược phẩm từ EU sẽ vào Việt Nam thuận lợi, dễ dàng và trực tiếp hơn; (2) mức độ bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm sẽ được tăng cường, khiến một số loại dược phẩm có thể chậm được giảm giá hơn; (3) cạnh tranh gay gắt hơn trong các gói thầu cung cấp thuốc cho các bệnh viện Việt Nam (trong nhóm đã cam kết mở cửa cho nhà thầu EU). Tác động này rõ rệt hơn với các loại biệt dược, thuốc chuyên dụng (nhóm thuốc có bảo hộ độc quyền, Việt Nam chưa sản xuất được). Đối với các sản phẩm thuốc thông thường, thuốc generic mà Việt Nam đã sản xuất được, các tác động không quá lớn. Ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm: EVFTA mở ra cơ hội cho việc thúc đẩy tự do hóa ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm của Việt Nam. Tác động của mở cửa dịch vụ với nhóm ngành này là tích cực trên các góc độ cầu về dịch vụ, cơ hội hợp tác với các doanh nghiệp từ EU. Đến năm 2025, xuất khẩu dịch vụ tài chính, bảo hiểm của Việt Nam sẽ tăng khoảng 21%, nhập khẩu sẽ tăng 9,65%. Tuy nhiên, áp lực cạnh tranh là rất lớn, đồng thời, áp lực ổn định vĩ mô cũng lớn hơn do mở cửa dịch vụ này làm cho Việt Nam dễ nhạy cảm hơn với các cú sốc từ bên ngoài. Ngành logistics: EVFTA có thể ảnh hưởng đến triển vọng phát triển ngành logistics ở 2 góc độ: (1) cam kết mở cửa thị trường của Việt Nam và EU trong lĩnh vực vận tải và phục vụ vận tải; (2) cam kết trong các lĩnh vực ảnh hưởng đến dung lượng thị trường dịch vụ logistics trên các góc độ quy mô, chất lượng dịch vụ, nhu cầu mở rộng công suất, thực hiện dịch vụ. Tuy nhiên, đây lại chính là những ngành huyết mạch của nền kinh tế mà ta đang cần phát triển nhằm nâng cao năng lực phục vụ các ngành sản xuất kinh doanh trong nước như dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, logistics hoặc các ngành phục vụ cho việc nâng cao chất lượng đời sống sức khỏe của người dân như dược phẩm. Do đó, sức ép cạnh tranh trong các ngành này tuy có nhưng là cần thiết và tất yếu để giúp ta có cơ hội hợp tác chặt chẽ với các nhà đầu tư nước ngoài có trình độ, vốn, công nghệ và kinh nghiệm để tạo đà tăng trưởng và phát triển lên một tầm cao mới. Câu hỏi 20. Hiệp định EVFTA có tác động như thế nào đến đời sống văn hóa – xã hội do những cam kết trong dịch vụ giáo dục? Trong Hiệp định EVFTA, đối với lĩnh vực liên quan đến văn hóa – tư tưởng, ta không cam kết mở cửa thị trường. Cụ thể, trong dịch vụ giáo dục, dù ta đã có những cam kết nhất định về mở cửa thị trường trong WTO và các FTA hiện hành nhưng vẫn bảo lưu được quyền không cho phép đầu tư nước ngoài để cung cấp dịch vụ giáo dục trong các môn học về an ninh, quốc phòng, chính trị, tôn giáo, văn hóa Việt Nam và các môn học khác cần thiết để bảo vệ đạo đức xã hội Việt Nam. Do vậy, tác động của Hiệp định EVFTA đối với đời sống văn hóa – xã hội là không đáng kể. Câu hỏi 21. Các cam kết về thương mại và phát triển bền vững trong EVFTA không đặt ra vấn đề trừng phạt thương mại. Vậy tác động tiêu cực của việc này như thế nào đối với vấn đề ô nhiễm môi trường, ví dụ như xi măng, luyện kim rất có thể sẽ được chuyển dịch từ EU sang Việt Nam? Các cam kết liên quan đến môi trường trong Chương Thương mại và Phát triển bền vững của Hiệp định EVFTA chỉ bao gồm việc thực hiện các hiệp định quốc tế và đa phương liên quan đến biến đổi khí hậu, đa dạng sinh học, quản lý tài nguyên rừng bền vững và thương mại lâm sản, và quản lý bền vững nguồn tài nguyên sinh vật biển và sản phẩm nuôi trồng thủy sản. Đây đều là những công ước mà Việt Nam đang tham gia nên các quy định trong nước có liên quan cũng đã được xây dựng để bảo đảm việc thực thi các công ước này. Bản thân EU cũng được đánh giá là một trong những đối tác đi đầu trên thế giới về việc tuân thủ các quy định này. Mặt khác, Chương này cũng có một số nội dung khá mới mẻ mà lần đầu tiên Việt Nam tham gia trong khuôn khổ một FTA. Do vậy, việc không có trừng phạt thương mại sẽ phần nào giúp giảm bớt sức ép đối với ta trong việc bảo đảm thực thi đầy đủ cam kết mà không ảnh hưởng đến những lợi ích kinh tế có được từ Hiệp định. IV. NHÓM CÂU HỎI VỀ CÔNG TÁC CHUẨN BỊ CHO VIỆC THỰC THI HIỆP ĐỊNH Câu hỏi 22. Để giúp doanh nghiệp tận dụng tối đa cơ hội từ Hiệp định EVFTA và rút kinh nghiệm từ quá trình thực thi Hiệp định CPTPP, Chính phủ sẽ có những giải pháp như thế nào để giúp doanh nghiệp tận dụng tối đa cơ hội từ Hiệp định này? Tham gia các FTA thế hệ mới như Hiệp định EVFTA có nghĩa là Việt Nam bước vào sân chơi lớn, chấp nhận đương đầu với các khó khăn, thách thức mới để cạnh tranh với các nước lớn. Để thích ứng được với bối cảnh này, Chính phủ sẽ ban hành Kế hoạch thực hiện Hiệp định EVFTA ngay sau khi Quốc hội xem xét phê chuẩn Hiệp định này để kịp thời đưa ra các định hướng, kế hoạch và lộ trình cho các Bộ, ngành và các địa phương nhằm triển khai thực thi đúng, đầy đủ và kịp thời các cam kết của Hiệp định này, giúp hiện thực hóa các lợi ích của Hiệp định này cho người dân và doanh nghiệp. Trong Kế hoạch thực hiện này, cần tập trung vào 5 nhóm giải pháp chủ yếu bao gồm: Về công tác tuyên truyền, phổ biến thông tin về EVFTA và thị trường của các nước EU: Tăng cường phổ biến về EVFTA cho các đối tượng có liên quan dưới các hình thức đổi mới sáng tạo hơn thông qua các phương tiện truyền thông, trang thông tin điện tử, in ấn các ấn phẩm, tài liệu, các chương trình phát thanh và truyền hình, các lớp tập huấn, hội thảo nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết về nội dung cam kết cũng như các công việc cần triển khai để thực thi hiệu quả EVFTA; thiết lập và tăng cường liên kết đầu mối thực thi EVFTA tại các Bộ, ngành và địa phương, v.v.. Về công tác xây dựng pháp luật, thể chế: Thực hiện rà soát pháp luật trong quá trình thực thi Hiệp định và báo cáo Chính phủ sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật và trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt ban hành theo đúng với lộ trình đã quy định của EVFTA; xây dựng, hoàn thiện các thiết chế cần thiết để thực thi Hiệp định như cơ chế thành lập nhóm hoặc các nhóm tư vấn trong nước bao gồm các tổ chức đại diện độc lập, bảo đảm sự đại diện cân bằng giữa các lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường, bao gồm tổ chức người lao động và người sử dụng lao động, doanh nghiệp và các tổ chức môi trường, v.v.. Về nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển nguồn nhân lực: Xây dựng các chương trình hỗ trợ, nâng cao năng lực cạnh tranh, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cho các ngành hàng, doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ, nông dân, phù hợp với cam kết quốc tế; đồng thời, chuẩn bị những giải pháp ứng phó, hỗ trợ đối với những ngành hàng, mặt hàng chịu tác động lớn, trực tiếp từ việc thực thi Hiệp định; hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào mạng lưới sản xuất, chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu, v.v.. Về chủ trương và chính sách đối với tổ chức công đoàn và các tổ chức của người lao động tại cơ sở doanh nghiệp: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ lao động, tiêu chuẩn lao động phù hợp với các tiêu chuẩn, cam kết, công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia; tham gia các Công ước cơ bản còn lại của ILO, v.v.. Về chính sách an sinh xã hội, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững: Xây dựng và ban hành đồng bộ các chính sách xã hội, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Ngoài ra, Chính phủ cũng sẽ chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương, căn cứ vào các nhóm công việc lớn này, khẩn trương xây dựng Kế hoạch thực hiện của đơn vị, địa phương mình cũng như tăng cường việc giám sát thực hiện để bảo đảm việc thực thi của Việt Nam được đầy đủ, hiệu quả và đồng bộ. V. NHÓM CÂU HỎI VỀ CÔNG TÁC SỬA ĐỔI, XÂY DỰNG PHÁP LUẬT ĐỂ THỰC THI HIỆP ĐỊNH EVFTA Câu hỏi 23. Đề nghị Chính phủ làm rõ về lộ trình sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ để phù hợp với cam kết trong Hiệp định EVFTA. Theo kết quả rà soát pháp luật, một số quy định hiện hành trong Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi năm 2009 cần phải được tiến hành sửa đổi, bổ sung ngay khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực. Tuy vậy, theo kế hoạch, Luật này cũng sẽ cần phải được sửa đổi, bổ sung một số quy định để phù hợp với Hiệp định CPTPP và theo đó sẽ được trình Quốc hội xem xét tại Kỳ họp thứ 2 năm 2021 (do có thời gian chuyển đổi là 3 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực). Do vậy, để bảo đảm việc sửa đổi luật được tổng thể, toàn diện và nhất quán, Chính phủ dự kiến sẽ kết hợp việc sửa đổi, bổ sung này với cả những nghĩa vụ theo Hiệp định EVFTA để trình Quốc hội xem xét vào năm 2021. Như vậy, trong thời gian từ khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực cho đến khi Luật sửa đổi của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi năm 2009 chính thức có hiệu lực, các nghĩa vụ theo Hiệp định EVFTA sẽ được áp dụng trực tiếp thông qua Nghị quyết của Quốc hội về việc phê chuẩn EVFTA. Bên cạnh đó, những cam kết dự kiến đưa vào Nghị quyết của Quốc hội để áp dụng trực tiếp trong thời gian sửa Luật (cụ thể là các nội dung liên quan đến hiệu lực của nhãn hiệu, giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý, quy định liên quan đến kiểu dáng công nghiệp của sản phẩm là bộ phận của sản phẩm phức hợp, bù đắp cho chủ sở hữu sáng chế do chậm chễ trong thủ tục cấp phép đăng ký thuốc) sẽ được chi tiết hóa để bảo đảm việc thực thi được nhất quán, rõ ràng, thuận lợi. Câu hỏi 24. Hiệp định EVFTA quy định cơ quan quản lý phải bù đắp cho chủ sở hữu sáng chế do chậm chễ trong thủ tục cấp phép đăng ký thuốc. Cam kết này chưa có trong luật hiện hành. Vậy Chính phủ dự kiến kế hoạch sửa đổi như thế nào? Theo kết quả rà soát pháp luật, quy định về việc bù đắp[2] cho chủ sở hữu sáng chế là dược phẩm nếu thời hạn khai thác sáng chế bị rút ngắn do chậm trễ bất hợp lý trong thủ tục xin cấp phép lưu hành dược phẩm đó cần phải được bổ sung vào Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi năm 2009. Tuy vậy, Chính phủ đã dự kiến sẽ kết hợp sửa đổi, bổ sung các cam kết EVFTA cùng với cả các cam kết của CPTPP để đưa vào luật sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành và dự kiến trình Quốc hội xem xét tại Kỳ họp thứ 2 năm 2021. Do vậy, trong thời gian chờ sửa luật, quy định này sẽ được áp dụng trực tiếp thông qua Nghị quyết của Quốc hội về việc phê chuẩn EVFTA. Câu hỏi 25. Đề nghị làm rõ các cam kết liên quan đến dịch vụ bảo hiểm y tế. Việc thực hiện các cam kết này có cần phải sửa luật hiện hành không? Việt Nam không có bất kỳ cam kết nào đối với dịch vụ bảo hiểm y tế. Theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế, bảo hiểm y tế là hình thức bảo hiểm bắt buộc được áp dụng đối với các đối tượng theo quy định của Luật để chăm sóc sức khỏe, không vì mục đích lợi nhuận do Nhà nước tổ chức thực hiện. Do đó, dịch vụ bảo hiểm y tế không thuộc phạm vi điều chỉnh của cam kết quốc tế nói chung, bao gồm Hiệp định EVFTA. Việt Nam chỉ cam kết đối với dịch vụ bảo hiểm sức khỏe (health insurance services), hay còn gọi là dịch vụ bảo hiểm y tế tự nguyện. Nội dung cam kết cụ thể đối với dịch vụ này như sau: Đối với phương thức cung cấp dịch vụ qua biên giới: Ta không cam kết đối với dịch vụ bảo hiểm sức khỏe; Đối với phương thức cung cấp dịch vụ thông qua hình thức hiện diện thương mại: Ta cam kết không hạn chế, ngoại trừ các quy định trong cam kết chung. Theo kết quả rà soát pháp luật, các cam kết liên quan đến mở cửa thị trường dịch vụ - đầu tư, trong đó có dịch vụ bảo hiểm sức khỏe, đã đủ rõ và đủ chi tiết nên được kiến nghị áp dụng trực tiếp khi Hiệp định có hiệu lực. Ngoài ra, Bộ Tài chính đã có kế hoạch sửa đổi tổng thể Luật Kinh doanh bảo hiểm trong đó tích hợp cả những cam kết theo các FTA mà Việt Nam tham gia gần đây là CPTPP và EVFTA. Dự kiến dự án luật này sẽ được trình Quốc hội xem xét tại kỳ họp thứ 2 năm 2021. Câu hỏi 26. Đề nghị Chính phủ làm rõ về lộ trình sửa đổi đối với Luật Kinh doanh bảo hiểm để phù hợp với cam kết trong Hiệp định EVFTA. Theo kết quả rà soát pháp luật, Luật Kinh doanh bảo hiểm sửa đổi năm 2010 phải sửa đổi, bổ sung quy định liên quan đến việc cho phép thành lập chi nhánh công ty tái bảo hiểm nước ngoài để bảo đảm phù hợp với cam kết trong Hiệp định EVFTA và cam kết này có thời gian chuyển đổi là 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Hiện Chính phủ đang đề xuất trình Quốc hội xem xét Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi) tại Kỳ họp thứ hai năm 2021 của Quốc hội khóa XV. Việc sửa đổi này sẽ bao gồm cả nghĩa vụ theo Hiệp định EVFTA. Câu hỏi 27. Quốc hội đã thông qua Bộ luật Lao động sửa đổi với những sửa đổi, bổ sung để phù hợp với cả Hiệp định CPTPP và EVFTA. Vậy Luật Công đoàn có cần sửa để bảo đảm phù hợp với cam kết trong các Hiệp định này không? Các nội dung của các Công ước của ILO đều đã được nội luật hóa trong Bộ luật Lao động sửa đổi và cũng sẽ được quy định hướng dẫn chi tiết hơn trong các văn bản hướng dẫn thực thi Bộ luật mà hiện Chính phủ đang xây dựng. Đối với Luật Công đoàn, hiện Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam đang xây dựng dự thảo sửa đổi. Theo quan điểm của Chính phủ, để bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ giữa các luật hiện hành trong nước, việc sửa đổi Luật Công đoàn đối với những nội dung đã được sửa đổi, bổ sung trong Bộ luật Lao động là điều cần thiết. Câu hỏi 28. Đối với những văn bản pháp luật phải sửa đổi hoặc ban hành ngay để phù hợp với cam kết, Chính phủ đã có kế hoạch như thế nào để kịp thời ban hành ngay tại thời điểm Hiệp định có hiệu lực? Theo kết quả rà soát pháp luật, một số các văn bản thuộc thẩm quyền ban hành của Chính phủ và các Bộ, ngành cần phải có hiệu lực ngay vào thời điểm Hiệp định EVFTA có hiệu lực, ví dụ như biểu thuế xuất nhập khẩu ưu đãi, mua sắm của Chính phủ, quy tắc xuất xứ… Do vậy, để bảo đảm có đầy đủ cơ sở pháp lý cho việc thực thi Hiệp định, Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành khẩn trương chủ động rà soát để có thể tiến hành ngay việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật ở cấp Chính phủ, bảo đảm các văn bản này được ban hành đúng thời điểm Hiệp định EVFTA có hiệu lực. Trong trường hợp cần thiết, Chính phủ cũng sẽ xem xét việc ban hành theo thủ tục rút gọn đối với các văn bản này. Câu hỏi 29. Trong Hiệp định EVFTA, Việt Nam cam kết sẽ gia nhập Hiệp định về Quyền tác giả (WCT) và Hiệp ước về Biểu diễn và Bản ghi âm (WPPT) của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO). Tuy vậy, cam kết này không được thể hiện trong kết quả rà soát pháp luật của Chính phủ. Đề nghị làm rõ và bổ sung nội dung này. Trong Hiệp định EVFTA, Việt Nam cam kết sẽ gia nhập 2 công ước nói trên của WIPO sau 3 năm kể từ khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực. Trong Hiệp định CPTPP, Việt Nam cũng có cam kết tương tự và theo lộ trình thì Chính phủ sẽ xúc tiến việc gia nhập các công ước này trong năm 2022 (do Hiệp định CPTPP đã có hiệu lực vào năm 2019). Như đã trình bày trong Tờ trình phê chuẩn EVFTA, việc rà soát có tham khảo và đối chiếu với kết quả rà soát Hiệp định CPTPP. Đối với những cam kết tương tự cùng có trong Hiệp định EVFTA và CPTPP, nếu những đề nghị sửa đổi, bổ sung, ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật để thực thi Hiệp định CPTPP trước đây đã đủ để đảm bảo thực hiện những cam kết tương tự trong EVFTA thì sẽ không được nhắc lại trong kiến nghị sửa đổi văn bản quy phạm pháp luật để thực thi EVFTA. Do vậy, đối với việc tham gia 2 công ước của WIPO nói trên, Chính phủ không nhắc lại trong kết quả rà soát và kiến nghị gia nhập các điều ước quốc tế để thực hiện EVFTA. Tuy vậy, Bộ Công Thương đã bổ sung việc gia nhập 2 công ước vào dự thảo Kế hoạch thực thi của Chính phủ để bảo đảm việc thực thi được đầy đủ và hiệu quả. Câu hỏi 30. EVFTA dự kiến sẽ mở cửa cho nhà thầu EU tham gia các gói thầu cung cấp thuốc cho các bệnh viện Việt Nam với một ngưỡng giá trị tối thiểu nhất định. Do vậy, có cần phải sửa đổi các quy định liên quan đến mua sắm công tại Luật Dược và Luật Đấu thầu để đảm bảo phù hợp với EVFTA hay không? Các gói thầu theo cam kết trong EVFTA chỉ mở cho các nhà thầu của EU. Do vậy, Chính phủ dự kiến sẽ ban hành một nghị định hướng dẫn riêng với những gói thầu thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định này thay vì sửa các luật hiện hành có liên quan. Cách làm này tương tự như Hiệp định CPTPP mà hiện Chính phủ đã và đang triển khai. [1] Việc lựa chọn hình thức “bù đắp” và mức độ “bù đắp” do các bên tự quy định mà không có hình thức mang tính bắt buộc nào. [2] Việc lựa chọn hình thức “bù đắp” và mức độ “bù đắp” do các bên tự quy định mà không có hình thức mang tính bắt buộc nào.