Những bến cảng vẽ lại trật tự thế giới
-
Trung Quốc đang từng bước định hình lại cấu trúc quyền lực trên đại dương thông qua mạng lưới các dự án cảng trải rộng khắp thế giới. Những công trình hạ tầng quy mô lớn này không chỉ là biểu tượng của tham vọng kinh tế mà còn phản ánh một chiến lược địa chính trị tinh vi đang làm thay đổi cách thức vận hành của thương mại toàn cầu.
Trong bối cảnh phần lớn hàng hóa thế giới di chuyển bằng đường biển, việc sở hữu và kiểm soát các điểm dừng chiến lược trở thành một dạng quyền lực mới có sức ảnh hưởng sâu rộng hơn rất nhiều so với những cuộc phô diễn quân sự truyền thống.
Bức tranh này hiện ra rõ nét từ một chi tiết nhỏ. Một container bơ từ Peru đến Trung Quốc nay chỉ mất ít hơn 10 ngày nhờ siêu cảng Chancay, do một tập đoàn quốc doanh Trung Quốc vận hành.
Đằng sau sự rút ngắn thời gian đó không chỉ là tối ưu chuỗi cung ứng mà là sự xuất hiện của một chuỗi hạ tầng xuyên lục địa được xây dựng có chủ đích.
Với hơn 120 dự án cảng ở nhiều quốc gia, Trung Quốc đã trở thành nhà đầu tư hạ tầng hàng hải tích cực nhất toàn cầu trong hai thập kỷ qua tạo ra một mạng lưới có khả năng định hướng dòng chảy thương mại.
Động lực của Bắc Kinh xuất phát từ hai nhu cầu song hành. Một mặt nền kinh tế Trung Quốc phụ thuộc mạnh vào xuất khẩu và nhập khẩu nguyên liệu, do đó yêu cầu các tuyến vận tải ổn định. Hạ tầng cảng chính là nền tảng đảm bảo sự lưu thông ấy.
Mặt khác việc phát triển năng lực xây dựng hạ tầng ở nước ngoài giúp duy trì công suất của ngành xây dựng và công nghiệp nặng trong nước vốn đang dư thừa. Vì vậy các khoản đầu tư này vừa mang ý nghĩa kinh tế vừa là một hình thức xuất khẩu năng lực sản xuất.
Tuy nhiên chính lớp chiến lược ẩn dưới các dự án hạ tầng mới là điều làm dấy lên tranh luận. Sự xuất hiện của căn cứ quân sự Trung Quốc tại Djibouti sau một thời gian dài Bắc Kinh hoạt động dưới vai trò nhà đầu tư thương mại đã trở thành ví dụ điển hình cho khả năng chuyển đổi chức năng của một số cảng.
Dù không phải mọi cảng Trung Quốc đầu tư đều có tiềm năng quân sự hóa nhưng khả năng đó luôn tồn tại, bởi đặc điểm hạ tầng của các cảng nước sâu vốn phục vụ được cả tàu thương mại và tàu quân sự. Trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược gia tăng, sự linh hoạt này khiến các nhà hoạch định chính sách ở Mỹ và châu Âu đặc biệt lo ngại.
Với Washington mạng lưới cảng của Trung Quốc được nhìn như một cấu trúc mới đang bủa vây các tuyến thương mại sống còn của Mỹ. Những dự án gần kênh đào Panama hay tại Nam Mỹ có ý nghĩa đặc biệt nhạy cảm, bởi đây là khu vực Mỹ xem là vùng lợi ích chiến lược.
Sự hiện diện ngày càng lớn của Trung Quốc khiến Mỹ cảm nhận rằng cán cân ảnh hưởng trong khu vực đang dần thay đổi theo hướng bất lợi cho mình.
Tuy vậy cách các nước sở tại nhìn nhận lại khác biệt đáng kể. Phần lớn các quốc gia đang phát triển không có khả năng tự xây dựng hạ tầng quy mô lớn và cũng không nhận được hỗ trợ tương xứng từ các nước phát triển.
Khi Mỹ hoặc châu Âu chậm tham gia vào các dự án hạ tầng, những đề nghị tài chính và kỹ thuật từ Trung Quốc trở thành lựa chọn thực tế nhất. Điều này khiến nhiều chính phủ xem các khoản đầu tư của Trung Quốc không phải là rủi ro chiến lược mà là cơ hội phát triển kinh tế và mở rộng thị trường xuất khẩu của họ.
Hệ quả là thương mại biển toàn cầu đang bước vào thời kỳ chính trị hóa ngày càng mạnh mẽ. Một cảng không còn là hạ tầng thuần túy mà đồng thời là công cụ gây ảnh hưởng. Quyền tiếp cận hay quyền vận hành cảng có thể trở thành đòn bẩy trong các cuộc cạnh tranh thương mại hoặc căng thẳng ngoại giao.
Việc Trung Quốc xây dựng mạng lưới cảng ở khắp nơi vì thế không chỉ là sự gia tăng hiện diện trên bản đồ hạ tầng mà còn là sự định hình lại các mối quan hệ quyền lực trong hệ thống quốc tế.
Điều nổi bật nhất trong chiến lược này nằm ở chỗ nó phản ánh một sự chuyển dịch căn bản của quyền lực.
Nếu thế kỷ XX chứng kiến cuộc cạnh tranh dựa trên lãnh thổ và sức mạnh quân sự thì thế kỷ XXI đang chứng kiến cuộc cạnh tranh dựa trên khả năng điều phối chuỗi cung ứng và kiểm soát các nút thắt hạ tầng.
Trung Quốc thông qua các dự án cảng đang xây dựng một dạng quyền lực mềm. Một dạng quyền lực không cần hiện diện quân sự thường trực nhưng vẫn tạo ra ảnh hưởng sâu sắc đối với những quốc gia phụ thuộc vào thương mại biển.
Trong bối cảnh này Mỹ và các đồng minh buộc phải đưa ra một phản ứng tương xứng nếu không muốn bị gạt ra khỏi các vị trí chiến lược trên bản đồ thương mại toàn cầu. Khi Trung Quốc liên tục mở rộng ảnh hưởng qua hạ tầng cảng, câu hỏi đặt ra cho phương Tây không chỉ là làm thế nào để cạnh tranh mà còn là làm thế nào để đề xuất những phương án thay thế có sức hấp dẫn tương đương.
Sự lan tỏa của các dự án cảng Trung Quốc là tín hiệu cho thấy trật tự thế giới đang dịch chuyển. Các cảng biển trở thành những điểm giao thoa giữa kinh tế và địa chính trị là nơi mà các cường quốc thử sức và đo lường ảnh hưởng của mình.
Đây không còn là cuộc chơi của thuần thương mại mà là quá trình tái cấu trúc quyền lực toàn cầu, trong đó mỗi cảng mới có thể góp phần định hình lại tương quan giữa các quốc gia trong thế kỷ XXI./.