NCS. VƯƠNG THỊ BÍCH NGÀ (Cơ sở 2, Trường Đại học Ngoại thương tại Thành phố Hồ Chí Minh)
TÓM TẮT:
Bài nghiên cứu giới thiệu và phân tích các khái niệm logistics thường được dùng, từ đó hệ thống hóa quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện khái niệm logistics. Bên cạnh đó, tác giả cũng tập trung làm rõ các yếu tố tác động đến ngành Logistics, đề xuất mô hình nghiên cứu về các yếu tố tác động đến phát triển bền vững ngành Logistics Việt Nam.
Từ khóa: logistics, phát triển bền vững, logistics bền vững.
- Đặt vấn đề
Logistics bắt đầu xuất hiện trong các cuộc chiến tranh của đế chế Hy Lạp và La Mã khi các binh sĩ vận chuyển, phân phối các nhu yếu phẩm như: lương thực, vũ khí, thuốc men,… đến các doanh trại với sự phối hợp của nhiều người cùng quy trình quản lý chặt chẽ nhằm tránh sự phá hoại từ đối thủ. Từ đó dần hình thành nên một hệ thống mà hiện nay gọi là quản lý logistics.
Vai trò của logistics ngày càng được khẳng định khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Điều này đã được Mỹ và các đồng minh thực hiện vô cùng tốt khi cung cấp vũ khí, đạn dược, quân trang đúng thời điểm một cách tối ưu. Chiến tranh thế giới thứ hai đã thúc đẩy và tạo ra nhiều ứng dụng về logistics được phát triển đến ngày nay.
Cùng với sự phát triển vũ bão của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là bước tiến lớn của cách mạng công nghiệp 4.0, logistics dần trở thành một công cụ, một công việc không thể thiếu của mỗi doanh nghiệp trong mọi lĩnh vực, nhất là trong lĩnh vực sản xuất - kinh doanh. Khi logistics hoạt động không hiệu quả, dây chuyền sản xuất của doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng đến chất lượng và thời gian. Chính vì vậy, đã có rất nhiều nghiên cứu nhằm đưa ra một khái niệm, phương diện hoạt động và các yếu tố tác động đến sự phát triển của logistics, nhằm giúp doanh nghiệp hạn chế được bất cập trong quy trình quản lý logistics của doanh nghiệp, từ đó hạn chế được các bất cập tác động đến hoạt động sản xuất - kinh doanh. Do vậy, bài viết sẽ giới thiệu và phân tích các khái niệm logistics thường được dùng, từ đó hệ thống hóa quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện khái niệm logistics, đề xuất mô hình nghiên cứu về các yếu tố tác động đến phát triển bền vững ngành Logistics Việt Nam.
- Khái niệm logistics
2.1. Quá trình hình thành và phát triển khái niệm logistics
Logistics là thuật ngữ chuyên ngành, có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, theo đó trong tiếng Việt từ tương đương gần nhất là “hậu cần”. Logistic có khái niệm bắt nguồn từ nhu cầu quân sự trong việc cung cấp cho quân đội trong quá trình di chuyển của các đoàn quân từ căn cứ ra tiền tuyến. Trong thời Hy Lạp cổ đại, Đế chế Roman và Byzantine đã có những sỹ quan đảm nhận vai trò “logistikas”, là người chịu trách nhiệm đến các vấn đề về tài chính cũng như cung cấp phân phối.
Logistics có khái niệm liên quan đến kinh doanh bắt nguồn từ những năm 1950. Điều này chủ yếu do sự gia tăng việc cung cấp, vận chuyển trong một thế giới toàn cầu hóa, đòi hỏi phải có những chuyên gia trong lĩnh vực này. Hiểu một cách đơn giản, logistics là một phần của chuỗi cung ứng, bao gồm tổng thể những công việc liên quan đến hàng hóa gồm: đóng gói, vận chuyển, lưu kho, bảo quản, cho tới khi hàng được giao đến người tiêu thụ cuối cùng. Một cách chi tiết hơn, logistics là một trong những ngành “dịch vụ hậu cần”, được hiểu đơn giản nhất là quá trình chuẩn bị hàng hóa, sắp xếp, đóng gói, kẻ kí mã hiệu và bảo quản hàng hóa, vận chuyển hàng hóa ra cảng và làm thủ tục thông quan xuất khẩu hoặc nhập khẩu cho hàng (Tào Thị Hải, 2020).
Năm 1988, Hội đồng Quản trị logistics Hoa Kỳ (LAC - The US. Logistics Administration Council) đưa ra khái niệm: “Logistics là quá trình lập kế hoạch, thực hiện và kiểm soát dòng di chuyển và lưu kho những nguyên vật liệu thô của hàng hóa trong quy trình, những hàng hóa thành phẩm và những thông tin có liên quan, từ khâu mua sắm nguyên vật liệu cho đến khi được tiêu dùng, với mục đích thỏa mãn yêu cầu của người tiêu dùng”.
Năm 1998, Christopher định nghĩa logistics như sau: Logistics là quá trình quản lý chiến lược mua sắm, vận chuyển và lưu trữ nguyên liệu, các bộ phận và hàng tồn kho thành phẩm cùng luồng thông tin có liên quan thông qua tiến trình tổ chức và thực hiện các kênh tiếp thị. Logistics không dừng lại ở việc xử lý hay vận chuyển, mà còn bao gồm tổ hợp các hoạt động như truyền thông, dịch vụ khách hàng, nội địa hóa, hậu cần (Stock và Lambert, 2001) và lập kế hoạch có liên quan mật thiết đến thương mại và sản xuất (Grant và cộng sự, 2006).
Năm 1999, giáo trình Logistics and Supply Chain Management của Trường Đại học Hàng hải Thế giới (World Maritime University) đã đưa ra khái niệm “Logistics là quá trình tối ưu hóa về vị trí, lưu trữ và vận chuyển các tài nguyên hay các yếu tố đầu vào từ điểm xuất phát là nhà cung ứng, thông qua các nhà sản xuất, người bán buôn, bán lẻ, đến tay người tiêu dùng thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế”.
Năm 2001, Hội đồng các chuyên gia Quản trị Chuỗi cung ứng Hoa Kỳ (CSCMP - Council of Supply Chain Management Professionals) đưa ra một khái niệm chính xác và toàn diện. Theo đó, “Logistics được định nghĩa là một bộ phận của chu trình chuỗi cung ứng, bao gồm các quá trình hoạch định kế hoạch, thực hiện và kiểm soát một cách hiệu quả việc dự trữ và lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ, thông tin hai chiều giữa điểm khởi đầu và điểm tiêu dùng nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng”.
Năm 2003, trong tác phẩm Supply Chain Strategy, Chủ tịch Học viện Nghiên cứu Logistics Georgia, Hoa Kỳ, ông Edward Frazelle đã nhận định: “Logistics là quá trình lưu chuyển của vật tư, thông tin và tiền tệ từ người cung ứng đến người tiêu dùng cuối cùng”. Cũng trong năm 2003, tại Việt Nam, GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân đã định nghĩa trong tài liệu “Logistics - Những vấn đề cơ bản” như sau: “Logistics là quá trình tối ưu hóa các hoạt động vận chuyển và dự trữ hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ cuối cùng thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế”. Theo đó, logistics là các hoạt động (dịch vụ) liên quan đến hậu cần và vận chuyển, bao gồm các công việc liên quan đến cung ứng, vận tải, theo dõi sản xuất, kho bãi, thủ tục phân phối, hải quan,… Hay hiểu theo cách khác, logistics là tập hợp các hoạt động của nhiều ngành nghề, công đoạn trong một quy trình hoàn chỉnh.
Năm 2004, theo Hội nghị Liên hiệp quốc về Thương mại và Phát triển, còn được biết đến với tên gọi Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên hiệp quốc (UNCTAD - United Nations Conference on Trade and Development) cho biết: “Logistics là có được thứ cần thiết tại địa điểm và thời gian đúng nhất”. Mặc dù được dùng tương đối phổ biến, song theo tác giả, đây không phải là một định nghĩa chuẩn, bởi nó chưa trình bày được nội hàm, nội dung các hoạt động, nghiệp vụ của khái niệm logistics. Việc dùng định nghĩa này cũng là một trong các nguyên nhân khiến logistics trở nên mơ hồ, dẫn đến sự thiếu hiểu biết, hay những nhầm lẫn phổ biến về logistics như hiện nay.
Năm 2005, tại kỳ họp thứ 7, khóa XI, ngày 14/6/2005, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Thương mại 2005, trong đó có qui định cụ thể khái niệm dịch vụ logistics. Tại điều 233 - Mục 4 - Chương VI của Luật Thương mại quy định: “Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công đoạn bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi mã ký hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan tới hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao”.
Năm 2015, trong Luận án Tiến sĩ Quản lý nhà nước đối với dịch vụ Logistics ở Cảng Hải Phòng, tác giả Nguyễn Quốc Tuấn cho rằng: “Logistics là một chuỗi các hoạt động liên tục, có quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, được thực hiện một cách khoa học và có hệ thống qua các bước nghiên cứu, hoạch định, tổ chức, quản lý, thực hiện, kiểm tra, kiểm soát và hoàn thiện các hoạt động, bao gồm các công việc liên quan đến cung ứng, vận tải, theo dõi sản xuất, kho bãi, thủ tục phân phối, hải quan,... Do đó, logistics là quá trình liên quan tới nhiều hoạt động khác nhau trong cùng một tổ chức, từ xây dựng chiến lược cho đến các hoạt động chi tiết, cụ thể để thực hiện chiến lược”.
Năm 2020, Tào Thị Hải, trong bài nghiên cứu “Phát triển đô thị cảng Đà Nẵng với dịch vụ logistics trong thập niên 2020-2030” cho thấy: “Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công đoạn, bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi kí mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan tới hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao” (Tào Thị Hải, 2020).
2.2. Hướng tiếp cận phổ biến hiện nay
Hiện nay có rất nhiều ý kiến cho thấy khó có thể tìm được một từ tương đương trong tiếng Việt thay thế cho khái niệm logistics trong tiếng Anh, vì thế người ta vẫn giữ nguyên thuật ngữ logistics trong các nghiên cứu và tài liệu chuyên môn. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế sâu rộng, khái niệm về logistics không ngừng thay đổi và phát triển theo hướng mở rộng cả về mức độ và phạm vi hoạt động trên tinh thần kế thừa, phát huy và kiện toàn các khái niệm đã được giới thiệu trước đó. Nói cách khác, khái niệm chính thức về logistics vẫn đang dần được hoàn thiện. Tuy vậy, có thể khái quát và phân loại khái niệm logistics thành 2 hướng tiếp cận: (1) Nhóm định nghĩa hẹp và (2) Nhóm định nghĩa rộng.
Nhóm định nghĩa hẹp cho rằng: dịch vụ logistics chủ yếu dừng lại ở các dịch vụ liên quan đến hàng hóa. Các khái niệm trong nhóm đều cho rằng bản chất của dịch vụ logistics là việc tập hợp các yếu tố hỗ trợ cho quá trình vận chuyển sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ cuối cùng. Tiêu biểu nhất là khái niệm logistics được đề cập trong Luật Thương mại 2005. Tuy vậy, định nghĩa trong Luật Thương mại 2005 vẫn được đề cập theo hướng mở. Cụ thể, bên cạnh việc liệt kê một cách có hệ thống các phương diện của khái niệm logistics, Luật vẫn để ngỏ “các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa” cho công tác quản lý trong tương lai. Nhóm định nghĩa hẹp nhấn mạnh sợi dây liên kết đến nhiều yếu tố như vận tải, lưu kho, lưu bãi,... Hơn nữa, người cung cấp dịch vụ logistics không có quá nhiều sự khác biệt so với người cung cấp dịch vụ vận tải đa phương thức (Nguyễn Xuân Viễn, 2020).
Nhóm định nghĩa rộng gắn logistics với 2 giai đoạn cụ thể: (1) quá trình nhập nguyên vật liệu đầu vào và (2) hàng hóa được cung ứng đến tay người tiêu dùng. Nhóm định nghĩa rộng phân định rõ ràng vai trò của từng nhà cung cấp các dịch vụ đơn lẻ như: dịch vụ vận tải, dịch vụ giao nhận, dịch vụ khai hải quan, dịch vụ tư vấn pháp lý, dịch vụ hỗ trợ sản xuất, dịch vụ phân phối hàng hóa,... Có thể thấy, nhóm định nghĩa rộng có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần phân định rõ ràng giữa một bên là các nhà cung cấp từng dịch vụ đơn lẻ với bên còn lại là một nhà cung cấp dịch vụ logistics chuyên nghiệp, cũng chính là người đảm nhận toàn bộ các khâu trong quá trình hình thành và đưa hàng hóa đến tay người tiêu dùng cuối cùng (Tào Thị Hải, 2020).
- Các yếu tố tác động đến sự phát triển bền vững ngành logistics Việt Nam
3.1. Khái niệm phát triển bền vững
Theo Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới (World Commission on Environment and Development - WCED) giới thiệu trong tác phẩm Our Common Future xuất bản năm 1987: Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm phương hại đến khả năng đáp ứng các nhu cầu của các thế hệ trong tương lai (WCED, 1987).
Còn theo UNESCO: Phát triển bền vững có thể được xem như một tương lai, trong đó tầm quan trọng của các yếu tố về môi trường, xã hội và kinh tế được cân bằng, hướng đến mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống (UNESCO, 2000).
Nhiều nghiên cứu định tính và định lượng trên thế giới đã cho thấy phát triển bền vững là khái niệm bậc 2, được đo lường thông qua 3 phương diện cụ thể là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và phát triển môi trường (Bansal, 2005; Chen và Chow, 2012; Lee và Saen, 2012).
3.2. Các nghiên cứu nước ngoài về phát triển ngành logistics
Nghiên cứu của viện Nomura: Trong số các nghiên cứu về logistics Việt Nam của các tác giả nước ngoài, nghiên cứu “Vietnam logistics development, trade facilitation and the impact on poverty reduction” của Viện Nghiên cứu Nomura (Nhật Bản) công bố năm 2002 là một trong những nghiên cứu phổ biến nhất. Nghiên cứu của Viện Nomura đã chỉ ra các nhà cung cấp dịch vụ logistics ở Việt Nam hiện tại chỉ mới đáp ứng được 25% nhu cầu cơ bản của thị trường logistics. Nghiên cứu này cũng đưa ra nhận định giá cả dịch vụ logistics rẻ là một lợi thế của Việt Nam, nhưng chất lượng dịch vụ không đảm bảo, sự kém phát triển của các công ty giao nhận địa phương chính là những khó khăn lớn cho thị trường logistics trong nước.
Nghiên cứu của Samaras: Steven A. Samaras (2000) đã tiến hành nghiên cứu “Competing upstream: Inbound logistics as a source of competitive advantage” với mục tiêu nghiên cứu về các yếu tố giúp cải thiện và nâng cao lợi thế cạnh tranh dịch vụ logistics đầu vào (inbound logistics). Đối tượng tham gia khảo sát bao gồm 80 doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực logistics tại thời điểm nghiên cứu. Kết quả trình bày trong nghiên cứu định lượng cho thấy, có đến 65 trên tổng số 80 doanh nghiệp (tức chiếm 81,25% doanh nghiệp được khảo sát) đồng ý chi phí, tốc độ giao hàng và lợi thế khách hàng có mối liên hệ mật thiết đến chất lượng các dịch vụ logistics. Trong đó 11% đến từ sự khác biệt về lợi thế chi phí, 4,81% sự khác biệt được ghi nhận về lợi thế khách hàng và 4,42% về tốc độ giao hàng.
Nghiên cứu của Blancas và cộng sự: Trong nghiên cứu “Efficient Logistic - A Key to Vietnam’s Competitiveness”, Blancas và cộng sự đã tập trung nghiên cứu và đề xuất 5 nhóm giải pháp với mục tiêu cải thiện, tăng cường, nâng cao độ tin cậy và hiệu suất trong hoạt động vận tải, kho vận và tổng thể chuỗi cung ứng nội địa, quốc tế của Việt Nam. 5 nhóm giải pháp lần lượt được trình bày bao gồm: (1) hiện đại hóa song song với việc đồng bộ hệ thống hải quan; (2) nỗ lực tăng cường tính minh bạch; (3) tăng cường công tác quy hoạch, quản lý và tổ chức thực hiện hành lang vận tải đa phương thức nói chung và vận tải đa phương thức quốc tế nói riêng; (4) chú trọng quan tâm phát triển hệ thống giao thông đường bộ; (5) nghiên cứu và đề xuất các giải pháp, tạo điều kiện hội nhập với các quốc gia và vùng lãnh thổ.
Nghiên cứu của Ruth Banomyong: Trong nghiên cứu “Formulating regional logistics development policy: The case of ASEAN”, R. Banomyong đã lần lượt trình bày hệ thống đánh giá năng lực cạnh tranh ngành Logistics của các quốc gia trong khu vực ASEAN, trong đó có Việt Nam. Theo đó, bộ tiêu chí bao gồm 4 yếu tố: (1) tiềm lực phát triển cơ sở hạ tầng logistics; (2) sự kiện toàn và phát triển của khung thể chế, chính sách, pháp luật liên quan đến công tác quản lý logistics; (3) năng lực của các nhà cung cấp dịch vụ, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực logistics và (4) năng lực của doanh nghiệp sử dụng dịch vụ logistics đánh giá dựa trên quy mô doanh nghiệp, tập quán kinh doanh, các hệ thống logistics được thiết kế, khả năng tiếp cận với các dịch vụ logistics khác,…
Nghiên cứu của Sullivan: Sullivan (2006) trong nghiên cứu “Vietnam Transportation and Logistics: Opportunities and Challenges” đã chỉ ra thực trạng, những cơ hội và thách thức mà lĩnh vực vận tải và logistics của Việt Nam đang đối mặt. Trong nghiên cứu này, tác giả lần lượt phân tích các cơ hội và thách thức của ngành Vận tải hàng hóa, liên quan đến các hình thức vận tải phổ biến tại Việt Nam như vận tải đường bộ, vận tải đường sắt, vận tải đường hàng không và vận tải đường thủy. Trên cơ sở phân tích, tác giả đã đưa ra nhiều giải pháp kiến nghị đến các cơ quan hữu quan nhằm nắm bắt cơ hội và giải quyết căn cơ những khó khăn, thách thức.
Nghiên cứu của ADB: Ngân hàng Phát triển châu Á (Asian Development Bank - ADB), trong nghiên cứu quy mô lớn “Development Study on the North - South Economic Corridor” (2007) đã đưa ra quan điểm về hệ thống logistics quốc gia như sau: Một hệ thống logistics được cấu thành từ 4 thành phần chính: (1) những người sử dụng dịch vụ logistics, tức là những doanh nghiệp xuất nhập khẩu, nhà thương mại, người chuyên gửi hàng và nhận hàng; (2) các nhà cung cấp dịch vụ logistics công cộng và tư nhân; (3) các thể chế, chính sách - pháp luật và quy định liên quan đến logistics do quốc gia và chính quyền địa phương ban hành; (4) kết cấu hạ tầng giao thông vận tải và thông tin liên lạc. ADB cũng nhận định, thực tế hiệu quả hoạt động của hệ thống logistics được đánh giá bởi 4 tiêu chí cụ thể, bao gồm: hiệu quả về chi phí, mức độ thuận tiện, mức độ tin cậy và mức độ an toàn.
Nghiên cứu của Business Monitor International: Tổ chức Business Monitor International (Vương quốc Anh) đã xuất bản các báo cáo liên quan đến Vận tải hàng hóa ở Việt Nam trong 2 năm 2009 và 2011. Những báo cáo này tuy không phân tích chi tiết toàn bộ hệ thống logistics của Việt Nam, nhưng tập trung đánh giá tình hình vận tải hàng hóa Việt Nam theo các phương thức vận tải như: vận tải đường bộ, vận tải đường hàng không, vận tải đường sắt, vận tải đường thủy. Bên cạnh đó, tình hình kết cấu hạ tầng giao thông vận tải của Việt Nam trong thời gian nghiên cứu diễn ra cũng được xem xét và đánh giá một cách có hệ thống. Bằng phương pháp phân tích SWOT, các báo cáo này đã tiếp cận và trình bày nội dung nghiên cứu. Trên cơ sở những phân tích nêu trên, các báo cáo của Business Monitor International đã góp phần đưa ra những khuyến cáo cụ thể và chi tiết để khắc phục tình trạng chậm phát triển của hệ thống hạ tầng logistics tại Việt Nam.
Nghiên cứu của Zhang và Lu: Sử dụng mô hình SWOT, PEST, mô hình phân tích thứ bậc (AHP - Analytic Hierarchy Process) và mô hình chức năng, nhóm tác giả đã tiến hành xem xét và phân tích những điểm mạnh và hạn chế về năng lực logistics của các quốc gia trong vùng. Nghiên cứu đề xuất 12 tiêu chí nhằm đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành logistics tại các quốc gia. Trong đó bao gồm 7 nhân tố cơ bản và 5 nhân tố nâng cao. Các nhân tố cơ bản bao gồm: (1) vị trí địa lý; (2) phân bổ tài nguyên; (3) phân bố dân cư; (4) hệ thống pháp luật; (5) nguồn nhân lực và các hệ thống giáo dục đào tạo; (6) hạ tầng cơ sở liên quan đến logistics; (7) đặc trưng khí hậu và thời tiết. Nghiên cứu cũng đề cập đến 5 nhân tố nâng cao cần được xem xét khi đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành, bao gồm: (8) nhu cầu về dịch vụ logistics; (9) tác động dịch vụ logistics đến nền kinh tế; (10) dịch vụ logistics; (11) khả năng cải tiến dịch vụ và (12) tiềm năng phát triển của dịch vụ logistics trong tương lai.