Skip to content
  • Categories
  • Recent
  • Tags
  • Popular
  • Users
  • Groups
Skins
  • Light
  • Cerulean
  • Cosmo
  • Flatly
  • Journal
  • Litera
  • Lumen
  • Lux
  • Materia
  • Minty
  • Morph
  • Pulse
  • Sandstone
  • Simplex
  • Sketchy
  • Spacelab
  • United
  • Yeti
  • Zephyr
  • Dark
  • Cyborg
  • Darkly
  • Quartz
  • Slate
  • Solar
  • Superhero
  • Vapor

  • Default (No Skin)
  • No Skin
Collapse

DDVT

Logistics QTL

Logistics QT

@Logistics QT
About
Posts
70
Topics
29
Shares
0
Groups
0
Followers
0
Following
0

Posts

Recent Best Controversial

  • Khai báo hải quan điện tử: Hướng dẫn quy trình chi tiết
    Logistics QTL Logistics QT

    Trong hoạt động xuất nhập khẩu, khai báo hải quan điện tử là thủ tục bắt buộc để hàng hóa được thông quan nhanh chóng và hợp pháp. Thay vì nộp hồ sơ giấy tại cửa khẩu, doanh nghiệp có thể khai báo trực tuyến qua hệ thống VNACCS/VCIS hoặc phần mềm hải quan điện tử khác được Nhà nước cấp phép. Từ đó giúp tiết kiệm thời gian, chi phí và đảm bảo minh bạch trong quản lý. Bài viết dưới đây sẽ hướng dẫn chi tiết quy trình khai báo hải quan điện tử trên hệ thống cùng những lưu ý quan trọng cho doanh nghiệp.

    Khai hải quan điện tử nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu trong doanh nghiệp
    1. Khái quát về khai báo hải quan điện tử
    Khai báo hải quan điện tử là hình thức doanh nghiệp hoặc cá nhân thực hiện thủ tục hải quan trực tuyến thay vì nộp hồ sơ giấy tại cửa khẩu. Tại Việt Nam, việc khai báo được triển khai qua Hệ thống VNACCS/VCIS của Tổng cục Hải quan hoặc thông qua phần mềm khai hải quan điện tử của các đơn vị cung cấp dịch vụ được Hải quan chấp thuận.

    • Khai báo trực tiếp trên VNACCS/VCIS: Doanh nghiệp đăng nhập bằng chữ ký số, khai tờ khai và nhận kết quả phân luồng ngay trên hệ thống.

    • Khai báo qua phần mềm hải quan điện tử (bên thứ ba): Các phần mềm như ECUS5-VNACCS, FPT.TQDT, Viettel,… đều kết nối trực tiếp với hệ thống VNACCS/VCIS. Ưu điểm là giao diện thân thiện, dễ thao tác, có thể quản lý nhiều tờ khai cùng lúc, tích hợp báo cáo và lưu trữ dữ liệu.

    Như vậy, doanh nghiệp có thể linh hoạt lựa chọn cách thức khai báo phù hợp với nhu cầu, miễn là tuân thủ đúng quy định pháp luật và bảo đảm dữ liệu được truyền chính xác lên hệ thống Hải quan quốc gia.

    Chuẩn bị để khai báo hải quan điện tử
    2. Điều kiện để khai báo hải quan điện tử
    Để thực hiện khai báo, doanh nghiệp cần đáp ứng một số điều kiện sau:

    Đã được cấp mã số thuế/doanh nghiệp: Mọi doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải có mã số thuế hợp lệ và còn hoạt động.
    Có chữ ký số hợp lệ: Chữ ký số (USB Token) được cấp bởi các tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số, đã đăng ký với hệ thống Hải quan.
    Đăng ký tài khoản khai báo hải quan điện tử trên Cổng thông tin một cửa quốc gia hoặc trực tiếp trên phần mềm khai hải quan được Tổng cục Hải quan chấp thuận.
    Phần mềm khai báo hải quan điện tử: Có thể dùng phần mềm miễn phí ECUS, FPT.TQDT hoặc phần mềm thương mại tích hợp của các đơn vị cung cấp.
    Kết nối internet ổn định để đảm bảo truyền nhận dữ liệu thông suốt.
    Quy trình khai báo hải quan điện tử
    Quy trình khai báo hải quan điện tử
    3. Quy trình khai báo hải quan điện tử chi tiết
    Dưới đây là các bước tuần tự mà doanh nghiệp cần thực hiện khi khai báo hải quan điện tử.

    Bước 1: Chuẩn bị chứng từ xuất khẩu

    Trước khi khai báo, cần chuẩn bị đầy đủ hồ sơ, bao gồm:

    Hóa đơn thương mại (Invoice)
    Hợp đồng mua bán (Contract)
    Vận đơn (Bill of Lading/Airway Bill)
    Packing List (Bảng kê chi tiết hàng hóa)
    Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) nếu có
    Giấy phép nhập khẩu, kiểm định, kiểm dịch (đối với hàng hóa có điều kiện)
    Các chứng từ khác theo từng loại hình xuất khẩu (gia công, sản xuất xuất khẩu, tạm nhập tái xuất…).
    Bước 2: Đăng nhập hệ thống khai báo hải quan điện tử

    Doanh nghiệp sử dụng chữ ký số để đăng nhập vào Hệ thống VNACCS/VCIS thông qua phần mềm khai báo. Mỗi lần đăng nhập cần kết nối USB Token để xác thực.

    Người khai hải quan nhập đầy đủ thông tin xuất khẩu trên hệ thống (nghiệp vụ EDA). Lúc này, hệ thống tự động kiểm tra, tính toán, phản hồi. Sau đó, người khai xác nhận lại và gửi để đăng ký tờ khai EDC; Nếu có sai sót thì quay lại EDA để sửa.

    Bước 3: Lập tờ khai hải quan điện tử

    Người khai hải quan nhập các thông tin theo yêu cầu của hệ thống, gồm:

    Thông tin chung: loại hình xuất nhập khẩu, mã loại hình (ví dụ: A11 - nhập kinh doanh tiêu dùng, E62 - xuất sản phẩm sản xuất xuất khẩu…)
    Thông tin doanh nghiệp xuất - nhập khẩu.
    Thông tin hàng hóa: tên hàng, mã HS, xuất xứ, đơn giá, số lượng, trị giá tính thuế.
    Thông tin vận tải: cảng xếp hàng, cảng dỡ hàng, số vận đơn.
    Thông tin thuế, phí: loại thuế áp dụng, mã biểu thuế, số tiền dự kiến phải nộp.
    Lưu ý: Phần mã HS cần khai chính xác để tránh sai sót dẫn đến bị ấn định thuế hoặc xử phạt.

    Bước 4: Truyền tờ khai hải quan điện tử

    Sau khi hoàn tất việc nhập dữ liệu, doanh nghiệp ký số và truyền tờ khai lên hệ thống. Hệ thống VNACCS/VCIS sẽ tự động phản hồi thông tin phân luồng.

    Bước 5: Nhận kết quả phân luồng

    Hệ thống sẽ trả về kết quả phân luồng:

    Luồng xanh: Miễn kiểm tra chứng từ, miễn kiểm tra thực tế hàng hóa. Hàng được thông quan ngay sau khi nộp thuế (nếu có).

    Luồng vàng: Kiểm tra hồ sơ giấy. Doanh nghiệp cần nộp bản scan hoặc bản gốc hồ sơ để cán bộ hải quan kiểm tra.

    Luồng đỏ: Kiểm tra hồ sơ và kiểm tra thực tế hàng hóa. Hải quan sẽ tiến hành kiểm tra trực tiếp tại cảng/kho bãi.

    Bước 6: Nộp thuế và lệ phí hải quan

    Trường hợp hàng hóa phải nộp thuế, doanh nghiệp thực hiện nộp thuế điện tử 24/7 thông qua ngân hàng thương mại đã kết nối với Tổng cục Hải quan. Sau khi hệ thống xác nhận đã nộp thuế, dữ liệu sẽ được tự động cập nhật.

    Bước 7: Thông quan hàng hóa

    Sau khi hoàn tất kiểm tra (nếu có) và nộp thuế, hệ thống sẽ trả về thông báo hàng hóa được thông quan.

    Doanh nghiệp in tờ khai hải quan điện tử và làm thủ tục nhận hàng tại cảng/kho.

    Bước 8: Lưu trữ hồ sơ

    Theo quy định, doanh nghiệp cần lưu trữ hồ sơ hải quan tối thiểu 05 năm để phục vụ việc kiểm tra, thanh tra sau thông quan.

    4. Một số lưu ý khi khai báo hải quan điện tử
    Kiểm tra kỹ thông tin trước khi truyền tờ khai: Sai sót ở mã HS, trị giá, thuế suất có thể dẫn đến bị xử phạt hoặc truy thu thuế.

    Nộp thuế kịp thời: Hệ thống chỉ thông quan sau khi thuế được nộp đầy đủ (trừ trường hợp miễn thuế).

    Sử dụng chữ ký số hợp lệ: Nếu chữ ký số hết hạn, doanh nghiệp sẽ không thể đăng nhập hệ thống.

    Đối chiếu dữ liệu với đối tác logistics: Thông tin vận đơn, container cần khớp với hãng tàu và cảng.

    Theo dõi phản hồi từ Hải quan: Trường hợp có sai sót, hệ thống sẽ gửi thông báo yêu cầu sửa đổi, bổ sung.

    5. Lợi ích của khai báo hải quan điện tử
    Tiết kiệm thời gian: Quy trình rút ngắn chỉ còn vài phút so với hàng giờ tại cửa khẩu.

    Giảm chi phí: Doanh nghiệp tiết kiệm chi phí nhân sự, giấy tờ, đi lại.

    Minh bạch: Toàn bộ dữ liệu được lưu trữ trên hệ thống, giảm thiểu tiêu cực.

    Kết nối nhanh chóng: Doanh nghiệp có thể thực hiện 24/7 ở bất cứ đâu có internet.

    Như vậy, khai báo hải quan điện tử là bước tiến quan trọng trong hiện đại hóa hải quan, giúp doanh nghiệp tiết kiệm thời gian, chi phí và tăng tính minh bạch trong hoạt động xuất nhập khẩu. Việc nắm vững các thao tác này sẽ giúp doanh nghiệp chủ động hơn, hạn chế rủi ro và đảm bảo hàng hóa thông quan thuận lợi.

    Khai báo hải quan ecus khai báo hải quan luật hải quan

  • Mã vạch hải quan và những điều doanh nghiệp hoạt động logistics cần biết
    Logistics QTL Logistics QT

    Mã vạch hải quan là công cụ quan trọng, giúp cơ quan quản lý và doanh nghiệp tiết kiệm thời gian, giảm sai sót và nâng cao hiệu quả giám sát hoạt động xuất nhập khẩu. Thay vì phải kiểm tra thủ công, cán bộ hải quan có thể quét mã để truy xuất ngay toàn bộ thông tin về tờ khai, hàng hóa và phương tiện vận chuyển, giúp đẩy nhanh quy trình thông quan, tăng cường minh bạch, an ninh và tính chính xác trong hoạt động logistics.

    Mã vạch hải quan giúp cơ quan hải quan và doanh nghiệp dễ dàng tra cứu, kiểm tra và xử lý hồ sơ
    1. Mã vạch hải quan là gì?
    Mã vạch hải quan là một dãy mã được mã hóa dưới dạng các vạch đen trắng (hoặc ký tự mã) gắn với tờ khai hải quan hoặc bảng kê phương tiện chứa hàng nhằm biểu thị duy nhất một tờ khai, lô hàng hoặc phương tiện vận chuyển. Khi quét mã vạch, hệ thống quản lý của cơ quan hải quan sẽ truy xuất nhanh toàn bộ thông tin liên quan đến tờ khai: chủ hàng, số tờ khai, thông tin hàng hóa, cảng đến/đi, trạng thái thông quan, và các chỉ dẫn kiểm tra hoặc soi chiếu. Mã vạch không thay thế tờ khai điện tử nhưng là công cụ hỗ trợ cho việc kiểm tra, rà soát và giám sát hàng hóa tại cửa khẩu, cảng và kho ngoại quan, giúp rút ngắn thời gian thủ tục và giảm lỗi nhập liệu.

    Mã vạch hải quan là định danh duy nhất cho từng tờ khai, giúp cơ quan hải quan và doanh nghiệp dễ dàng tra cứu, kiểm tra và xử lý hồ sơ.

    2. Các loại mã vạch hải quan
    a) Mã vạch trên tờ khai

    Là mã in trực tiếp trên tờ khai hải quan/giấy in tờ khai sau khi tờ khai đã được chấp nhận trong hệ thống VNACCS/VCIS. Mã này liên kết trực tiếp đến số tờ khai và là loại mã phổ biến nhất trong hoạt động xuống cảng, nhận hàng và đối chiếu.

    b) Bảng kê mã vạch phương tiện chứa hàng

    Bảng kê mã vạch phương tiện chứa hàng dùng cho các phương tiện chứa hàng (container, phương tiện đường bộ). Gồm danh sách mã vạch thể hiện các tờ khai gắn với từng container hoặc chuyến hàng; cán bộ giám sát có thể in bảng kê này để mang vào khu vực kiểm tra. Trong nhiều cảng, người khai hải quan phải in bảng kê mã vạch phương tiện chứa hàng để trình cho bộ phận giám sát cảng.

    c) Mã vạch hàng hoá

    Một số trường hợp quản lý logistic hoặc kiểm tra truy xuất nguồn gốc yêu cầu mã vạch gắn trực tiếp từng đơn vị hàng hóa như pallet hoặc kiện. Tuy nhiên, ở cấp độ hải quan, mã vạch chủ yếu dùng để nhận diện tờ khai hoặc container chứ không phải để định danh từng sản phẩm bán lẻ.

    Có nhiều loại mã vạch hải quan được sử dụng cho các mục đích khác nhau
    Có nhiều loại mã vạch hải quan được sử dụng cho các mục đích khác nhau
    3. Mục đích sử dụng mã vạch hải quan
    a) Tự động hoá tra cứu và kiểm tra thông tin

    Khi cán bộ giám sát quét mã vạch, hệ thống tự động kéo lên toàn bộ thông tin tờ khai, giúp đối chiếu nhanh giữa hồ sơ điện tử và hàng thực tế, giảm sai sót so với nhập tay.

    b) Tăng tốc quy trình thông quan và giảm thời gian chờ

    In mã vạch và bảng kê giúp rút ngắn thời gian chờ tại khu vực cửa khẩu, bởi quá trình đối chiếu, phân luồng kiểm tra (xanh/vàng/đỏ) được thực hiện nhanh hơn. Việc này đặc biệt hữu ích khi khối lượng tờ khai lớn hoặc trong giai đoạn cao điểm cảng.

    c) Hỗ trợ quản lý soi chiếu, giám sát và an ninh

    Mã vạch cho phép truy vết nhanh tờ khai nào đã được soi chiếu, đã lấy mẫu, đã kiểm tra thực tế hoặc bị dừng để kiểm tra chuyên sâu. Điều này giúp cơ quan hải quan quản lý rủi ro, lập báo cáo và kiểm toán nội bộ dễ dàng hơn.

    d) Tiện lợi cho doanh nghiệp xuất - nhập khẩu và logistics

    Doanh nghiệp, đại lý hải quan và đơn vị vận chuyển có thể in và chuẩn bị bảng mã vạch để mang theo khi tới cảng/kho, tránh phát sinh thủ tục bổ sung và rủi ro bị trễ lịch giao/nhận hàng.

    4. Một số câu hỏi và lưu ý quan trọng về mã vạch hải quan
    4.1 Cần có gì để in mã vạch hải quan?
    Mã số thuế/Mã số doanh nghiệp (để đăng nhập hệ thống).
    Số tờ khai hải quan đã được chấp nhận.
    Ngày đăng ký tờ khai và mã hải quan cửa khẩu nơi đăng ký.
    Máy tính có kết nối Internet và máy in để in mã vạch ra giấy (thường in A4 hoặc bảng kê container).
    4.2 Làm thế nào để đăng ký mã vạch hải quan?
    Doanh nghiệp hoặc đại lý hải quan sau khi nộp và tờ khai được chấp nhận trên hệ thống VNACCS/VCIS có thể truy cập cổng thông tin điện tử của Tổng cục Hải quan (mục “In bảng kê mã vạch, phương tiện chứa hàng” hoặc chức năng in tờ khai có mã vạch) để lấy/ in mã vạch.

    Một số cảng/kho cũng cho phép in bảng kê từ hệ thống nội bộ liên kết với Tổng cục Hải quan.

    Lưu ý: việc lấy mã vạch thường yêu cầu thông tin mã số doanh nghiệp (mã số thuế), số tờ khai, mã hải quan và ngày tờ khai.

    4.3 Mất bao lâu để có mã vạch sau khi nộp tờ khai?
    Theo hướng dẫn phổ biến, sau khi tờ khai được tiếp nhận, hệ thống sinh mã vạch và doanh nghiệp có thể tra cứu/ lấy mã vạch; một số hướng dẫn nêu thời gian có thể mất khoảng 8 tiếng kể từ thời điểm đăng ký để có thể tra cứu và in danh sách mã vạch (tùy tải hệ thống và quy trình xử lý). Do đó, doanh nghiệp cần chủ động lấy mã vạch trước thời điểm đến cảng để nhận hàng.

    Như vậy, mã vạch hải quan là công cụ kỹ thuật quan trọng, giúp tăng hiệu quả và độ chính xác trong quản lý tờ khai và giám sát hàng hóa tại cửa khẩu. Doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đại lý hải quan và đơn vị logistics cần chủ động chuẩn bị bảng kê mã vạch trước khi đến cảng/kho để tránh chậm trễ. Luôn kiểm tra hướng dẫn và cập nhật mới nhất về quy trình in và tra cứu mã vạch, tránh phát sinh lỗi tại cửa khẩu.

    Hiện nay, trong phần mềm ECUS, mã vạch được tích hợp tự động vào tờ khai điện tử, hỗ trợ việc truyền dữ liệu nhanh chóng, chính xác đến hệ thống của Tổng cục Hải quan. Nhờ đó, ECUS không chỉ đơn giản hóa thủ tục mà còn tăng tính minh bạch và hiệu quả trong hoạt động xuất nhập khẩu

    Khai báo hải quan mã vạch ecus luật hải quan

  • Hỏa tốc hướng dẫn làm thủ tục hải quan theo địa chỉ mới - Công văn 12252/CHQ-GSQL
    Logistics QTL Logistics QT

    Nhằm đảm bảo hoạt động thông suốt trong quá trình làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh; phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, Cục Hải quan đã ban hành Công văn hỏa tốc số 12252/CHQ-GSQL, hướng dẫn các đơn vị triển khai thực hiện trong thời gian thực hiện việc thay đổi thông tin địa chỉ theo đơn vị hành chính mới.

    Chỉ đạo các bên liên quan theo Công văn số 12252/CHQ-GSQL
    1. Hướng dẫn thủ tục hải quan khi thay đổi địa chỉ mới
    Để đảm bảo việc thực hiện thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh; phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh được thông suốt, Cục Hải quan hướng dẫn các đơn vị thực hiện xử lý như sau:

    › Trong khi hoàn thiện thủ tục thay đổi địa chỉ theo phương án sắp xếp lại đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã, người khai hải quan được sử dụng các chứng từ thuộc hồ sơ hải quan có thông tin địa chỉ theo các đơn vị hành chính trước giai đoạn sắp xếp lại cấp tỉnh, cấp xã để thực hiện các thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan.

    Một số loại chứng từ có thông tin địa chỉ cũ (trước giai đoạn thay đổi sắp xếp lại địa giới hành chính) được sử dụng như:

    Giấy đăng ký chứng nhận kinh doanh
    Hóa đơn thương mại
    Vận đơn
    Hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ
    Phiếu đóng gói hàng hóa
    Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O)
    Giấy chứng nhận/ xác nhận kiểm tra chuyên ngành
    Các loại giấy phép khác có liên quan…
    › Khi tiếp nhận và kiểm tra hồ sơ, cơ quan hải quan sẽ chấp thuận việc người khai hải quan cung cấp các chứng từ có thông tin địa chỉ theo đơn vị hành chính trước khi sắp xếp lại, để giải quyết thủ tục. Đồng thời, Cơ quan hải quan không yêu cầu người khai phải nộp hoặc xuất trình chứng từ có thông tin theo địa chỉ mới cho đến khi thủ tục thay đổi thông tin được hoàn tất theo phương án sắp xếp lại đơn vị hành chính.

    › Người khai hải quan có trách nhiệm hoàn tất việc thay đổi thông tin theo đúng quy định pháp luật và thông báo với cơ quan hải quan theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 6 Thông tư 38/2015/TT-BTC ngày 25/3/2015 của Bộ Tài chính.

    Chỉ đạo các bên liên quan theo Công văn số 12252/CHQ-GSQL
    2. Trách nhiệm của các đơn vị, cơ quan chức năng
    Trách nhiệm của các đơn vị liên quan trong việc thực hiện thủ tục hải quan khi thay đổi địa chỉ do sắp xếp lại đơn vị hành chính theo chỉ đạo tại Công văn số 12252/CHQ-GSQL như sau:

    › Chi cục trưởng Chi cục Hải quan khu vực có trách nhiệm:

    Chỉ đạo và yêu cầu các đơn vị thuộc và trực thuộc phổ biến, quán triệt đầy đủ đến từng cán bộ, công chức về việc thực hiện thủ tục hải quan đúng theo quy định pháp luật hiện hành và hướng dẫn tại công văn này.
    Kiên quyết không để xảy ra tình trạng cán bộ lợi dụng vị trí công tác để gây khó khăn, phiền hà hoặc sách nhiễu doanh nghiệp trong quá trình làm thủ tục.
    › Ban Công nghệ thông tin và Thống kê Hải quan có trách nhiệm:

    Chủ động kiểm tra, rà soát và cập nhật thông tin trên các hệ thống khai báo điện tử như VNACCS/VCIS, ECUS… cùng các nền tảng nghiệp vụ khác của cơ quan Hải quan, bảo đảm tương thích và phù hợp với phương án sắp xếp lại đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã.
    Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan và doanh nghiệp kinh doanh kho, bãi, cảng… để điều chỉnh thông tin trên các hệ thống liên quan, đảm bảo sự đồng bộ dữ liệu giữa các đơn vị.
    Kịp thời tiếp nhận, hỗ trợ và xử lý các thông tin cập nhật từ người khai hải quan sau khi hoàn tất thủ tục thay đổi theo phương án sắp xếp lại đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã.
    Trên đây là những thông tin hỏa tốc từ Công văn 12252/CHQ-GSQL của Cục Hải quan, hướng dẫn về các thủ tục hải quan theo địa chỉ mới do thay đổi địa giới hành chính. Doanh nghiệp vui lòng tìm hiểu và thực hiện đúng để đảm bảo quyền lợi cũng như tuân thủ quy định của pháp luật.

    Khai báo hải quan hải quan ecus chính sách luật hải quan

  • Tổng quan về hoạt động xuất nhập khẩu và mối liên hệ với Logistics
    Logistics QTL Logistics QT

    Xuất nhập khẩu là một phần không thể thiếu trong nền kinh tế toàn cầu, đóng góp vào sự phát triển và thịnh vượng của các quốc gia tham gia vào hoạt động này. Cùng với sự phát triển của các hoạt động xuất nhập khẩu, các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức khi muốn gia nhập vào nền kinh tế toàn cầu phải có những hiểu biết nhất định về ngành này.

    Hoạt động xuất nhập khẩu
    Xuất nhập khẩu là hoạt động quan trọng đối với kinh tế của quốc gia

    1. Hoạt động xuất nhập khẩu bao gồm những gì?
      Xuất nhập khẩu là hoạt động thương mại quốc tế, liên quan đến việc mua (nhập khẩu) và bán (xuất khẩu) hàng hóa giữa các quốc gia. Hiểu đơn giản, hàng hóa từ trong nước bán cho khách hàng nước ngoài được hiểu là xuất khẩu. Ngược lại, quá trình mua hàng hóa từ nước ngoài để phục vụ nhu cầu trong nước là nhập khẩu.

    Xuất nhập khẩu bao gồm các hoạt động như thương thảo hợp đồng, làm thủ tục hải quan, nộp thuế xuất nhập khẩu, và giao nhận hàng hóa qua biên giới, cảng hay sân bay. Xuất nhập khẩu hàng hóa cũng bao gồm cả các hoạt động như tạm nhập, tái nhập, tạm xuất, tái xuất, chuyển cửa khẩu, gửi vào kho ngoại quan hay quá cảnh qua lãnh thổ Việt Nam.

    Nhìn chung, xuất khẩu giúp các quốc gia thu về ngoại tệ, mở rộng thị trường, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, tăng cường phát triển kinh tế và củng cố mối quan hệ giữa các quốc gia.

    1.1 Mối liên hệ giữa Xuất nhập khẩu và Logistics
    Logistics và xuất nhập khẩu là hai lĩnh vực có mối liên hệ chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau, trong đó:

    • Logistics hỗ trợ và tạo điều kiện cho hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra thuận lợi bằng cách quản lý vận chuyển, lưu trữ và phân phối hàng hóa trong quá trình xuyên biên giới. Các dịch vụ logistics đảm bảo rằng hàng hóa được vận chuyển đúng thời gian, địa điểm và điều kiện yêu cầu.

    • Xuất nhập khẩu là một phần của chuỗi cung ứng toàn cầu mà logistics quản lý. Hoạt động xuất nhập khẩu cần sự hỗ trợ của các dịch vụ logistics để thực hiện việc vận chuyển hàng hóa, quản lý thủ tục hải quan, và phân phối sản phẩm đến thị trường tiêu thụ.

    Biện pháp kiểm dịch thực vật
    Biện pháp kiểm dịch thực vật áp dụng cho hàng hóa
    2. Biện pháp kỹ thuật kiểm tra hàng hóa xuất nhập khẩu
    Theo quy định tại Điều 61 và Điều 64, Luật quản lý ngoại thương 2017, những hàng hóa phải áp dụng những biện pháp kỹ thuật để kiểm tra khi làm các thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu bao gồm:

    (1) Hàng hóa áp dụng biện pháp kỹ thuật bao gồm:

    • Hàng hóa xuất nhập khẩu cần ghi nhãn và công bố tiêu chuẩn áp dụng.

    • Hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, thuộc Danh mục sản phẩm, hàng hóa có khả năng gây mất an toàn.

    • Thực phẩm đã qua chế biến, đóng gói sẵn; phụ gia và chất hỗ trợ chế biến thực phẩm; dụng cụ vật liệu bao gói chứa đựng thực phẩm.

    • Hàng hóa xuất nhập khẩu là thực phẩm chức năng, thực phẩm biến đổi gen, thực phẩm đã qua chiếu xạ, thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng có giấy chứng nhận y tế (được cấp bởi quốc gia xuất khẩu) hoặc giấy chứng nhận lưu hành tự do (CFS).

    • Hàng hóa nhập khẩu dùng trong thanh tra, kiểm tra, giám định tư pháp và các hoạt động công vụ.

    • Hàng hóa nhập khẩu dùng để bảo vệ sức khỏe, bảo đảm an toàn, bảo vệ môi trường.

    • Hàng hóa nhập khẩu là phương tiện đo, được sử dụng để định lượng hàng hóa, dịch vụ.

    (2) Hàng hóa áp dụng biện pháp kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật bao gồm:

    • Hàng hóa là động vật hay sản phẩm động vật cần phải được kiểm dịch theo quy định của pháp luật về thú y và kiểm dịch thực vật trước khi thực hiện các thủ tục xuất nhập khẩu, tạm xuất, tái xuất nhập, chuyển cửa khẩu, gửi vào kho ngoại quan hay quá cảnh qua lãnh thổ Việt Nam.

    (3) Hàng hóa áp dụng biện pháp kiểm dịch thực vật:

    • Hàng hóa là vật thể thuộc diện kiểm dịch thực vật, cần phải được kiểm dịch theo quy định của pháp luật về bảo vệ và kiểm dịch thực vật trước khi thực hiện các thủ tục xuất nhập khẩu, tạm xuất, tái xuất nhập, chuyển cửa khẩu, gửi vào kho ngoại quan hay quá cảnh qua lãnh thổ Việt Nam.

    • Cần kiểm dịch hàng hóa sau sau khi nhập khẩu tại khu cách ly kiểm dịch thực vật: Những giống cây trồng không có trong Danh mục giống cây trồng được phép sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam; Sinh vật có ích sử dụng để bảo vệ thực vật Việt Nam.

    (4) Hàng hóa phải áp dụng biện pháp kiểm dịch y tế biên giới:

    • Hàng hóa thuộc diện kiểm dịch y tế biên giới cần được kiểm dịch theo quy định của pháp luật về phòng, chống bệnh truyền nhiễm trước khi xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh lãnh thổ Việt Nam.

    Đọc thêm: Nhận diện rủi ro trong xuất nhập khẩu và đánh giá mức độ ảnh hưởng đến doanh nghiệp
    Kiểm tra xuất nhập khẩu
    Kiểm tra xuất nhập khẩu với những hàng hóa
    3. Những đối tượng phải kiểm tra xuất nhập khẩu
    Theo quy định tại Điều 65, Luật quản lý ngoại thương 2017, hàng hóa thuộc đối tượng phải kiểm tra khi xuất nhập khẩu qua lãnh thổ Việt Nam bao gồm:

    • Những loại hàng hóa phải áp dụng biện pháp kỹ thuật/ kiểm dịch được nêu tại mục 2 của bài viết này.

    • Hàng hóa tiềm ẩn nguy cơ gây mất an toàn hoặc có khả năng gây mất an toàn theo thông tin cảnh báo của các tổ chức quốc tế, khu vực và nước ngoài.

    • Hàng hóa bị phát hiện không phù hợp, phải tăng cường kiểm tra bởi cơ quan có thẩm quyền theo quy định pháp luật.

    Như vậy, bên cạnh các nhóm hàng hóa phải áp dụng biện pháp kỹ thuật và kiểm dịch tại Điều 61 và Điều 65 thì nhóm hàng hóa có khả năng mất an toàn hay những hàng hóa mà cơ quan thẩm quyền cần tăng cường kiểm tra thì sẽ thuộc đối tượng kiểm tra khi xuất nhập khẩu.

    Xuât nhập khẩu xuất khẩu nhập khẩu xnk ecus

  • Xuất khẩu nhập khẩu là gì?
    Logistics QTL Logistics QT

    Xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa là gì?

    Theo quy định tại Điều 28 Luật Thương mại 2005 về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa cụ thể như sau:

    • Xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật.

    • Nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật.

    Quy định về hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo quy định của pháp luật hiện hành

    Về hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu phải kiểm tra, căn cứ theo quy định tại Điều 65 Luật Quản lý ngoại thương 2017, có nội dung cụ thể như sau:

    • Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu là đối tượng phải kiểm tra bao gồm:
    • Hàng hóa phải áp dụng biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch quy định tại các điều 61, 62, 63 và 64 của Luật này;

    • Hàng hóa có tiềm ẩn khả năng gây mất an toàn hoặc hàng hóa có khả năng gây mất an toàn theo thông tin cảnh báo từ các tổ chức quốc tế, khu vực, nước ngoài;

    • Hàng hóa mà cơ quan có thẩm quyền phát hiện không phù hợp và phải tăng cường kiểm tra theo quy định của pháp luật.

    • Hàng hóa quy định tại khoản 1 Điều này được kiểm tra theo nguyên tắc quy định tại khoản 2 Điều 60 của Luật này và do cơ quan, tổ chức được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ định thực hiện.

    • Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, ban hành Danh mục hàng hóa là đối tượng phải kiểm tra quy định tại khoản 1 Điều này.

    Về hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu, căn cứ theo quy định tại Điều 5 Nghị định 69/2018/NĐ-CP cụ thể như sau:

    • Hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu thực hiện theo quy định tại các văn bản pháp luật hiện hành và Danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu quy định tại Phụ lục I Nghị định này.

    • Căn cứ Phụ lục I Nghị định này, các bộ, cơ quan ngang bộ công bố chi tiết hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu kèm theo mã số hàng hóa (mã HS) trên cơ sở trao đổi, thống nhất với Bộ Công Thương về Danh mục hàng hóa và thống nhất với Bộ Tài chính về mã HS.

    • Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định cho phép xuất khẩu hàng hóa cấm xuất khẩu; cho phép nhập khẩu hàng hóa cấm nhập khẩu nhằm phục vụ mục đích đặc dụng, bảo hành, phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, y tế, sản xuất dược phẩm, bảo vệ quốc phòng, an ninh.

    Về hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép, theo điều kiện, căn cứ theo quy định tại Điều 6 Nghị định 69/2018/NĐ-CP cụ thể như sau:

    • Ban hành Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép, theo điều kiện tại Phụ lục III Nghị định này.

    • Căn cứ Phụ lục III Nghị định này, các bộ, cơ quan ngang bộ công bố chi tiết hàng hóa kèm theo mã HS trên cơ sở trao đổi, thống nhất với Bộ Công Thương về Danh mục hàng hóa và thống nhất với Bộ Tài chính về mã HS.

    • Căn cứ Phụ lục III Nghị định này, các bộ, cơ quan ngang bộ ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành quy định chi tiết về việc cấp giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu phù hợp với quy định pháp luật và thực hiện việc cấp phép theo quy định.

    • Căn cứ mục tiêu điều hành trong từng thời kỳ, Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định việc áp dụng Giấy phép xuất khẩu tự động, Giấy phép nhập khẩu tự động đối với một số loại hàng hóa.

    Thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu được quy định như thế nào?

    Thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa được quy định cụ thể tại Điều 4 Nghị định 69/2018/NĐ-CP cụ thể như sau:

    • Đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép, thương nhân xuất khẩu, nhập khẩu phải có giấy phép của bộ, cơ quan ngang bộ liên quan.

    • Đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo điều kiện, thương nhân xuất khẩu, nhập khẩu phải đáp ứng điều kiện theo quy định pháp luật.

    • Đối với hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu phải kiểm tra theo quy định tại Điều 65 Luật Quản lý ngoại thương, thương nhân xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa phải chịu sự kiểm tra của cơ quan có thẩm quyền theo quy định pháp luật.

    • Đối với hàng hóa không thuộc trường hợp quy định tại Khoản 1, 2, 3 Điều này, thương nhân chỉ phải giải quyết thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu tại cơ quan hải quan.

    Để xuất khẩu được hàng hóa ra nước ngoài, công ty của bạn cần phải thực hiện theo thủ tục theo Điều 4 Nghị định 69/2018/NĐ-CP được đưa ra phía trên.

    Xuât nhập khẩu xuất khẩu nhập khẩu xnk

  • Chuỗi cung ứng là gì?
    Logistics QTL Logistics QT

    Chuỗi cung ứng là gì?

    Căn cứ tại tiểu mục 3.9 Mục 3 Tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 28000:2013 (ISO 28000:2007) về Quy định đối với hệ thống quản lý an toàn chuỗi cung ứng thì:

    Chuỗi cung ứng (supply chain) là tập hợp các nguồn lực và quá trình được liên kết, bắt đầu từ nguồn cung ứng vật liệu và mở rộng tới việc giao sản phẩm hoặc dịch vụ đến người sử dụng cuối cùng thông qua các phương thức vận chuyển.

    CHÚ THÍCH: Chuỗi cung ứng có thể gồm:

    • Người bán hàng;

    • Cơ sở sản xuất;

    • Nhà cung ứng logistic;

    • Trung tâm phân phối nội bộ;

    • Nhà phân phối;

    • Nhà bán buôn;

    • Các thực thể khác hướng đến người sử dụng cuối cùng.

    Trong đó:

    Chuỗi cung ứng xuôi (downstream): đề cập đến các hành động, quá trình và sự luân chuyển của hàng hóa trong chuỗi cung ứng diễn ra sau khi hàng hóa ra khỏi sự kiểm soát hoạt động trực tiếp của tổ chức, bao gồm, nhưng không giới hạn ở, bảo hiểm, tài chính, quản lý dữ liệu, bao gói, lưu kho và vận chuyển hàng hóa.

    Chuỗi cung ứng ngược (upstream): đề cập đến các hành động, quá trình và sự luân chuyển của hàng hóa trong chuỗi cung ứng diễn ra trước khi hàng hóa chịu sự kiểm soát trực tiếp của tổ chức, bao gồm, nhưng không giới hạn ở, bảo hiểm, tài chính, quản lý dữ liệu, bao gói, lưu kho và vận chuyển hàng hóa.

    Yêu cầu chung đối với các yếu tố của hệ thống quản lý an toàn chuỗi cung ứng là gì?

    Yêu cầu chung đối với các yếu tố của hệ thống quản lý an toàn chuỗi cung ứng được quy định tại tiểu mục 4.1 Mục 4 Tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 28000:2013 (ISO 28000:2007) về Quy định đối với hệ thống quản lý an toàn chuỗi cung ứng, cụ thể như sau:

    Tổ chức phải thiết lập, lập thành văn bản, áp dụng, duy trì và cải tiến liên tục hệ thống quản lý an toàn có hiệu lực để nhận biết các mối đe dọa về an toàn, đánh giá rủi ro và kiểm soát, giảm nhẹ các hệ quả của chúng.

    Tổ chức phải cải tiến liên tục hiệu lực của hệ thống theo các yêu cầu nêu trong toàn bộ Điều 4 Tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 28000:2013 (ISO 28000:2007).

    Tổ chức phải xác định phạm vi của hệ thống quản lý an toàn chuỗi cung ứng.

    Khi tổ chức thuê ngoài các quá trình ảnh hưởng đến sự phù hợp với những yêu cầu này, tổ chức phải đảm bảo những quá trình này được kiểm soát.

    Các kiểm soát cần thiết và trách nhiệm đối với các quá trình thuê ngoài phải được nhận biết trong hệ thống quản lý an toàn chuỗi cung ứng.

    Các thủ tục theo dõi và đo lường kết quả thực hiện hệ thống quản lý an toàn chuỗi cung ứng phải đưa ra những vấn đề gì?

    Căn cứ tại tiết 4.5.1 tiểu mục 4.5 Mục 4 Tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 28000:2013 (ISO 28000:2007) về Quy định đối với hệ thống quản lý an toàn chuỗi cung ứng quy định về đo lường và theo dõi kết quả thực hiện an toàn

    Theo đó, tổ chức phải thiết lập và duy trì các thủ tục theo dõi và đo lường kết quả thực hiện hệ thống quản lý an toàn chuỗi cung ứng của mình.

    Tổ chức cũng phải thiết lập và duy trì các thủ tục để theo dõi và đo lường kết quả thực hiện an toàn.

    Tổ chức phải xem xét các mối đe dọa và rủi ro liên quan đến an toàn, bao gồm cả các cơ chế gây hư hại tiềm ẩn và hệ quả của nó, khi thiết lập tần suất theo dõi và đo lường các thông số thực hiện quan trọng.

    Các thủ tục theo dõi và đo lường kết quả thực hiện hệ thống quản lý an toàn chuỗi cung ứng phải đưa ra những vấn đề sau:

    • Cả phép đo định tính và định lượng, thích hợp với nhu cầu của tổ chức;

    • Việc theo dõi mức độ đạt được chính sách, mục tiêu và chỉ tiêu quản lý an toàn của tổ chức;

    • Các biện pháp thực hiện chủ động để theo dõi sự tuân thủ chương trình quản lý an toàn, chuẩn mực kiểm soát vận hành;

    • Các yêu cầu pháp lý, luật định và các yêu cầu chế định khác về an toàn;
    • Các biện pháp thực hiện tích cực để theo dõi việc gây hư hại, các sai lỗi, sự cố và sự không phù hợp liên quan đến an toàn (gồm những lần thoát nạn và báo động sai) và bằng chứng khác trong quá khứ về việc thực hiện không đầy đủ hệ thống quản lý an toàn;

    • Việc ghi nhận dữ liệu và kết quả của việc theo dõi và đo lường đủ để tạo điều kiện cho việc phân tích hành động khắc phục và hành động phòng ngừa sau đó.

    Nếu thiết bị theo dõi cần thiết cho việc thực hiện và/hoặc việc theo dõi và đo lường, tổ chức phải yêu cầu thiết lập và duy trì các thủ tục đối với việc hiệu chuẩn và bảo trì các thiết bị đó.

    Hồ sơ về các hoạt động và kết quả hiệu chuẩn và bảo trì phải được duy trì đủ thời gian để tuân thủ luật pháp và chính sách của tổ chức.

    Chuỗi cung ứng là gì ? chuỗi cung ứng logistics quản trị

  • LPI – Logistics Performance Index
    Logistics QTL Logistics QT

    Định nghĩa LPI

    LPI là viết tắt của từ tiếng Anh “Logistics performance index”, có nghĩa là chỉ số năng lực quốc gia về logistics, do Ngân hàng thế giới tiến hành nghiên cứu và công bố trong báo cáo mang tên “Kết nối để cạnh tranh - ngành logistics trong nền kinh tế toàn cầu”. Những quốc gia muốn cải thiện về ngành logistics cần phải sửa đổi và hiện đại hóa những viện quản lí biên giới, thay đổi những chính sách quy định về vận chuyển, và trong một số trường hợp, đầu tư đáng kể vào cơ sở hạ tầng thương mại có liên quan.

    Các tiêu chí đánh giá chỉ số LPI

    Chỉ số LPI của một quốc gia được đánh giá dựa trên các tiêu chí thành phân sau đây:

    Cơ sở hạ tầng (infrastructure): Những cơ sở hạ tầng liên quan đến chất lượng thương mại và vận tải (cảng, đường sắt, đường bộ, công nghệ thông tin)
    Khả năng vận chuyển quốc tế (shipments international): Mức độ dễ dàng khi thu xếp cho các chuyến hàng với giá cả cạnh tranh
    Vấn đề cạnh tranh logistics (competence logistics): khả năng cạnh tranh và chất lượng của các dịch vụ logistics (vd: các nhà điều hành vận tải, môi giới hải quan)
    Vấn đề định vị (tracking & tracing): khả năng định vị theo thời gian thực đối với hàng hóa vận chuyển
    Sự đúng hạn (timeliness): khả năng hoàn thành việc giao hàng tới điểm đích theo đúng lịch lịch trình đã định
    Hải quan (customs): hiệu quả của quá trình thông quan, chẳng hạn như tốc độ, tính đơn giản, và tính minh bạch của các thủ tục.
    Phân tích sơ lược về logistics Việt Nam dựa trên LPI

    Cho đến nay Việt Nam mới có khoảng 3,000 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics (dịch vụ giao nhận, vận tải, kho bãi, bốc xếp…) Những doanh nghiệp này tập trung chủ yếu ở TP. Hồ Chí Minh – nơi thu hút trên 70% hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam.

    Đa số các nhà cung cấp dịch vụ logistics của Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, chủ yếu làm đại lý cho các nhà cung cấp dịch vụ logistics xuyên quốc gia trong từng hoạt động này. Quy mô của các trung tâm logistics nhìn chung còn nhỏ và chủ yếu phục vụ một số doanh nghiệp trong khu vực khu công nghiệp hoặc một tỉnh, thành, chưa phát triển được đến quy mô một ngành hoặc một vùng kinh tế.

    Bên cạnh đó, các trung tâm logistics của Việt Nam còn thiếu nhiều dịch vụ đặc thù để tạo ra giá trị gia tăng cao cho khách hàng sử dụng dịch vụ của trung tâm. Lao động trong ngành này cũng chưa được đào tạo một cách bài bản và chính quy về các kiến thức kỹ năng chuyên ngành.

    Chi phí dịch vụ logistics còn cao, chất lượng dịch vụ chưa đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Theo báo cáo hỗ trợ bộ Giao thông vận tải phát triển vận tải đa phương thức thì chi phí logsitics chiếm tỷ lệ 20,9% trong GDP của Việt Nam. Chi phí vận tải chiếm khoảng 60% trong toàn bộ chi phí logistics nước ta…

    Đó là những rào cản không nhỏ đối với sự phát triển ngành dịch vụ logistics của nước ta. Bên cạnh đó, chỉ số hoạt động LPI của nước ta mặc dù đã có cải thiện qua từng năm nhưng vẫn còn chưa thực sự hiệu quả so với một số nền kinh tế phát triển và đang phát triển trên thế giới và trong khu vực bởi thiếu độ tin cậy xuyên suốt trong chuỗi cung ứng kết nối Việt Nam với phần còn lại của thế giới.

    Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, nguyên nhân của vấn đề này là do thiếu hiệu quả trong kỹ thuật và tổ chức thực hiện hoạt động logistics. Bao gồm chi phí “bôi trơn” trong công tác vận chuyển, việc quy hoạch kết cấu hạ tầng giao thông vận tải không đồng bộ, vận tải đường bộ chưa đáp ứng được yêu cầu của chủ hàng và cảng biển chưa được khai thác hết tiềm năng.

    Để phát triển ngành dịch vụ logistics thương mại của nước ta, cần có những chính sách, giải pháp về vốn để giúp đỡ các doanh nghiệp làm dịch vụ logistics. Bên cạnh đó là những giải pháp khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư xây dựng và khai thác trung tâm logistics. Đồng thời phát triển nhu cầu sử dụng dịch vụ logistics từ hai phía Nhà nước và doanh nghiệp.

    Khái niệm logistics lpi logistics

  • Nguồn gốc logistics
    Logistics QTL Logistics QT

    Nguồn gốc thuật ngữ logsitics

    Logistics đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử phát triển của nhân loại, không còn là vấn đề xa lạ nhưng không phải ai cũng hiểu sâu sắc về vấn đề này. Logistics ngày nay được biết đến rất nhiều trong lĩnh vực kinh doanh, đây được xem như là một phương thức kinh doanh mới đem lại lợi nhuận rất lớn cho doanh nghiệp. Cùng với tốc độ phát triển của nền kinh tế thế giới, logistics ngày càng mở rộng và nâng cao, trở thành một ngành dịch vụ chiếm vai trò quan trọng không thể thiếu trong sự vận động của giao thương quốc tế. Tuy nhiên, nguồn gốc ra đời của logistics lại rất đặc biệt.

    Ban đầu, logistics được hình thành không phải xuất phát từ cung ứng cho hoạt động thương mại mà là để phục vụ chiến tranh. Trong các cuộc chiến tranh cổ đại của đế chế La Mã và Hy Lạp, những binh lính mang chức danh Logistikas có nhiệm vụ cung ứng và phân phối vũ khí, nhu yếu phẩm cho quân đội và thuật ngữ logistics cũng có nguồn gốc xuất phát từ đây. Công việc “hậu cần” này có ý nghĩa sống còn tới cục diện của chiến tranh, khi các bên tìm mọi cách bảo vệ nguồn cung ứng của mình và tìm cách triệt phá nguồn cung ứng của đối phương. Quá trình tác nghiệp đó dần hình thành một hệ thống mà sau này gọi là quản lý logistics.

    Theo từ điển Oxford, logistics có thể hiểu là một nhánh của ngành khoa học quân sự, liên quan đến các hoạt động như thu mua, bảo dưỡng và vận chuyển vật chất, nhân sự và phương tiện. Cách hiểu này được cho là bắt nguồn từ thuật ngữ “logistique” trong tiếng Pháp, là thuật ngữ được sử dụng trong tài liệu “Nghệ thuật chiến tranh” của Baron Henri – một tướng quân dưới trướng Napoleon.

    Tiền đề để logistics được ứng dụng trong thương mại

    Tưởng chừng logistics là công việc đơn giản nhưng lại có vai trò rất lớn trong quân sự, vì nếu có chút thiếu sót, chậm trễ thì phải đánh đổi bằng sự sinh tồn của quân đội nhưng đồng thời, nếu tận dụng và quản lý tốt hoạt động này thì sẽ mang lại lợi ích đáng kể. Napoleon đã từng định nghĩa “Logistics là hoạt động để duy trì lực lượng quân đội” và ông cũng đã từng nói “Kẻ nghiệp dư bàn về chiến thuật, người chuyên nghiệp bàn về logistics”.

    Trong hai cuộc đại chiến thế giới vai trò của logistics ngày càng rõ nét khi quân đội hậu cần của quân đội Mỹ và đồng minh đã hoạt động hiệu quả hơn quân Đức, bằng sự ưu thế trong việc cung cấp quân nhu, đạn dược, vũ khí đúng thời điểm mà quân đồng minh đã chiếm ưu thế hơn trong trận chiến. Hiệu quả của hoạt động logistics là yếu tố có tác động rất lớn tới thành bại chiến trường. Cuộc đổ bộ thành công của quân đồng minh vào vùng Normandie tháng 6/1944 chính là nhờ sự nỗ lực của khâu chuẩn bị hậu cần và quy mô của phương tiện hậu cần được triển khai.

    Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, các chuyên gia logistics trong quân đội đã áp dụng các kỹ năng logistics của họ trong tái thiết kinh tế thời hậu chiến. Đây cũng là lúc hoạt động logistics trong thương mại được ứng dụng và triển khai. Trước những năm 1950, công việc của logistics chỉ đơn giản là một hoạt động chức năng đơn lẻ. Trong các lĩnh vực marketing và quản trị sản xuất đã có những chuyển biến rất lớn thì vẫn chưa hình thành một quan điểm khoa học về quản trị logistics một cách hiệu quả. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ và quản lý cuối thế kỷ XX đã tạo ra cho logistics một bước phát triển mới, có thể gọi đó là giai đoạn phục hưng của logistics.

    Trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, hai người đầu tiên ứng dụng thành công logistics là Quang Trung (Nguyễn Huệ) và đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng đã ứng dụng nguyên lý logistics dẫn đến thành công vang dội là cuộc hành quân thần tốc đại phá quân Thanh (1789) và chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) và chiến dịch giải phóng miền nam thống nhất đất nước trên tuyến đường mòn Hồ Chí Minh lịch sử (1975).

    Sau những hiệu quả đạt được trong lĩnh vực quân sự, logistics đã được nghiên cứu mở rộng ứng dụng trên lĩnh vực kinh doanh trở thành một ngành dịch vụ quan trọng trong chuỗi cung ứng sản xuất, mua bán hàng hóa. Logistics được dịch nôm na là “hậu cần” nhưng không phản ánh hết đầy đủ ý nghĩa vì thế nên ở Việt Nam vẫn sử dụng nguyên mẫu từ “logistics”. Nếu giữa thế kỷ XX rất hiếm doanh nghiệp hiểu được logistics là gì thì đến cuối thế kỷ này, logistics được ghi nhận như một chức năng kinh tế chủ yếu, một công cụ hữu hiệu mang lại thành công cho các doanh nghiệp cả trong sản xuất và dịch vụ.

    Khái niệm logistics logistics inbound outbound

  • Phân biệt Logistics với Supply Chain (Chuỗi cung ứng)
    Logistics QTL Logistics QT

    Phân biệt Logistics (Chuỗi vận chuyển) với Supply Chain (Chuỗi cung ứng)

    Logistics có nguồn gốc từ Latin – Logic (nghĩa là hợp lý), khái niệm Quản trị Logistics được hiểu là một phần của quản trị chuỗi cung ứng bao gồm việc hoạch định, thực hiện, kiểm soát việc vận chuyển và dự trữ hiệu quả hàng hóa, dịch vụ cũng như những thông tin liên quan từ nơi xuất phát đến nơi tiêu thụ để đáp ứng yêu cầu của khách hàng.

    Chuỗi cung ứng

    Chuỗi cung ứng là hệ thống bao gồm các tổ chức, con người và các hoạt động, nguồn lực liên quan đến việc vận chuyển sản phẩm (hoặc dịch vụ) từ nhà cung cấp, sản xuất đến người tiêu dùng. Một chuỗi cung ứng thường bao gồm các công đoạn từ thu mua nguyên liệu thô, cung cấp cho phía sản xuất, sản xuất sản phẩm, phân phối đến các hệ thống bán lẻ và đến tay người tiêu dùng.

    Quản lý chuỗi cung ứng

    CSCMP (Council of Supply Chain Management Professionals) đã định nghĩa chính thức về quản lý chuỗi cung ứng như sau:

    “Quản lý chuỗi cung ứng bao gồm tất cả các hoạt động quản lý hậu cần gồm lập kế hoạch và quản lý tất cả các hoạt động liên quan đến việc tìm nguồn cung ứng và thu mua, bao gồm tất cả hoạt động Logistics. Quan trọng hơn, nó cũng bao gồm sự phối hợp và hợp tác với các đối tác trong một chuỗi cung ứng toàn diện, trong đó có thể là nhà cung cấp, các nhà cung cấp dịch vụ bên thứ ba, và khách hàng. Về bản chất, quản lý chuỗi cung ứng tích hợp quản trị cung cầu bên trong và giữa các công ty khác nhau.”
    Quản lý chuỗi cung ứng – các ranh giới và mối quan hệ

    Quản lý chuỗi cung ứng là một chức năng tích hợp với trách nhiệm của việc kết nối các chức năng kinh doanh chính và các quy trình kinh doanh trong các công ty thành một mô hình kinh doanh gắn kết và hiệu suất cao. Nó bao gồm tất cả các hoạt động quản lý hậu cần lưu ý ở trên, cũng như các hoạt động sản xuất và thúc đẩy sự phối hợp của các quá trình và các hoạt động của các bộ phận tiếp thị, bán hàng, thiết kế sản phẩm, tài chính, công nghệ thông tin.

    Sự cần thiết của một chuỗi cung ứng toàn diện với hiệu quả và hiệu suất cao

    Với chuỗi cung ứng hoàn hảo, doanh nghiệp sẽ có được nhiều lợi thế cạnh tranh trong đó có thể kể đến lợi thế về chi phí, giá thành trên một đơn vị sản phẩm, kèm theo đó là khả năng đáp ứng đơn hàng của khách hàng. Ngày nay, nhu cầu của nền kinh tế toàn cầu, doanh nghiệp quyết định tự cung tự cấp và tự làm mọi thứ để kinh doanh sẽ giúp họ đến gần với vực thẳm hơn. Vì để đầu tư một bộ máy làm việc với nhiều bộ phận để hoàn thành một sản phẩm, họ phải gánh trên mình một khoảng phí khổng lồ. Trong đó là chưa kể đến năng lực sản xuất và công nghệ mà họ đang sở hữu. Thay vào đó, hãy liên kết với các đối tác khác mà ở đó họ sẽ làm tốt hơn và thậm chí có thể cung cấp với mức phí thấp hơn rất nhiều. Giả sử, ở mỗi công đoạn trong quá trình sản xuất ra sản phẩm, nhà cung cấp có thể giúp tiết kiệm 10% chi phí thì ở thành phẩm cuối cùng chi phí có thể giảm được 10%, một lợi ích nữa là giúp giảm mức đầu tư cho sản xuất ở các công đoạn đó.

    Các trường phái khác nhau về logistics và chuỗi cung ứng

    Theo quan điểm truyền thống, supply chain (chuỗi cung ứng) chỉ là một phần nhỏ của logistics và thường được xem là logistics bên ngoài phạm vi công ty.

    Một quan niệm khác cho rằng, chuỗi cung ứng chỉ là một tên gọi khác, được “gán nhãn lại” của logistics. Với trường phái này, logistics và supply chain có ý nghĩa tương tự như nhau.

    Trường phái thứ ba xem chuỗi cung ứng là một chiến lược rộng lớn, cắt ngang tất cả các quy trình của công ty.

    Tuy nhiên, quan điểm phổ biến nhất là quan điểm hợp nhất (unionist) xem logistics là một bộ phận của supply chain, bởi những người theo quan điểm này cho rằng supply chain là một chuỗi quy trình thực hiện nhiều chức năng khác nhau. Đây cũng là quan điểm được nhiều người ủng hộ nhất, với việc xem supply chain là tất cả các hoạt động, quy trình logistics giữa các bộ phận và giữa các công ty với nhau; trong khi logistics management là một bộ phận của supply chain management với các hoạt động giúp quản lý dòng chảy của hàng hóa một cách hiệu quả.

    Một mô hình chuỗi cung ứng cơ bản theo quan điểm hợp nhất (unionist) thường gồm nhiều công đoạn và logistics là một bộ phận quan trọng không thể thiếu.

    Sự khác nhau giữa Quản trị Logistics và Quản trị chuỗi cung ứng

    Thuật ngữ “quản trị chuỗi cung ứng” xuất hiện cuối những năm 80 và trở nên phổ biến trong những năm 90. Trước đó khá lâu, đã xuất hiện thuật ngữ như ‘hậu cần” (logistics).

    Về quy mô:

    Logistics là những hoạt động xảy ra trong ranh giới một công ty vừa và nhỏ còn chuỗi cung ứng là mạng lưới các công ty cùng làm việc và hợp tác để phân phối sản phẩm đến thị trường.
    Logistics truyền thống chỉ tập trung chú ý vào các hoạt động như thu mua, phân phối, bảo trì và quản lý tồn kho. Trong khi đó Quản trị chuỗi cung ứng không chỉ gồm Logistics truyền thống mà còn bao gồm các hoạt động như tiếp thị, phát triển sản phẩm mới, tài chính, và dịch vụ khách hàng.
    Về mục tiêu:

    Logistics mong muốn đạt được là giảm chi phí và tăng được chất lượng dịch vụ còn quản lý chuỗi cung ứng lại đặt mục tiêu ở giảm được chi phí toàn thể dựa trên tăng cường khả năng cộng tác và phối hợp, do đó tăng hiệu quả trên toàn bộ hoạt động Logistics.

    Về công việc:

    Quản trị Logistics quản lý các hoạt động bao gồm vận tải, kho bãi, dự báo, đơn hàng, giao nhận, dịch vụ khách hàng… còn quản lý chuỗi cung ứng bao gồm cả quản trị Logistics và quản trị nguồn cung cấp, sản xuất, hợp tác và phối hợp của các đối tác, khách hàng…

    Tổng hợp những điểm khác nhau cơ bản của hai khái niệm:

    Logistics management	Supply chain management
    

    Thời gian ra đời Khái niệm logistics có từ rất sớm Supply chain là khái niệm mới ra đời
    Phạm vi Chủ yếu quản trị bên trong doanh nghiệp Quản trị cả bên trong lẫn bên ngoài doanh nghiệp
    Số lượng doanh nghiệp liên quan 01 Nhiều doanh nghiệp
    Mục tiêu Giảm chi phí Tăng chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng Giảm chi phí toàn thể dựa trên tăng khả năng cộng tác và phối hợp Tăng ưu thế cạnh tranh
    Về tầm ảnh hưởng Ngắn/ trung hạn Dài hạn
    Về công việc cụ thể Quản trị hoạt động gồm vận tải, kho bãi, dự báo đơn hàng, giao nhận, dịch vụ khách hàng… Tất cả hoạt động của logistics Quản trị nguồn cung cấp, sản xuất, hợp tác với đối tác, khách hàng…

    Chuỗi cung ứng là gì ? logistics chuỗi cung ứng

  • Nghiên cứu tổng quan về logistics và đề xuất các yếu tố tác động đến sự phát triển bền vững ngành Logistics Việt Nam
    Logistics QTL Logistics QT

    3.3. Các nghiên cứu trong nước về phát triển ngành Logistics
    Luận án Tiến sĩ “Hoàn thiện phương pháp lựa chọn container trong vận tải đa phương thức ở Việt Nam” (2000) của Tiến sĩ Vũ Thế Bình: Trên cơ sở tổng hợp và phân tích kết quả từ các khảo sát liên quan đến các hoạt động vận tải, kết hợp với nghiên cứu thực trạng hoạt động cảng và bến container tại Việt Nam, tác giả Vũ Thế Bình đã đưa ra nhiều giải pháp và kiến nghị trong việc lựa chọn container hợp lý. Theo đó, việc lựa chọn container cần tương thích với các đặc trưng cơ bản của tàu, đảm bảo nằm trong các giới hạn cho phép để phát triển đội tàu container phù hợp với tuyến liner, đảm bảo chấp hành tốt các thông lệ quốc tế hướng đến mục tiêu hiệu quả cao nhất trong vận tải đa phương thức sử dụng container tại Việt Nam.

    Luận án Tiến sĩ “Hoàn thiện thủ tục giao nhận hàng hóa trong vận tải đa phương thức tại Việt Nam” (2007) của Tiến sĩ Nguyễn Hồng Vân: Trên cơ sở phân tích một cách có hệ thống các vấn đề dưới giác độ lý luận và giác độ thực tiễn liên quan đến các thủ tục giao nhận hàng hóa trong loại hình dịch vụ vận tải đa phương thức quốc tế tại các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực logistics tại Việt Nam, tác giả Nguyễn Hồng Vân đã đưa ra những đánh giá về thực trạng thủ tục giao nhận hàng hóa. Theo đó, tác giả cũng đề xuất nhiều giải pháp nhằm hoàn thiện và kiện toàn thủ tục giao nhận hàng hóa trong vận tải đa phương thức ở Việt Nam.

    Luận án Tiến sĩ “Các giải pháp cơ bản hoàn thiện công tác quản lý và khai thác cảng container phục vụ vận tải đa phương thức ở Việt Nam” (2008) của Tiến sĩ Nguyễn Thị Phương: Tác giả đã tiến hành nhiều phân tích chuyên sâu, qua đó đánh giá một cách cụ thể và chuẩn xác tình hình quản lý và khai thác vận hành các cảng container điển hình của Việt Nam. Trong bối cảnh ngành logistics trong nước chịu áp lực thay đổi lớn từ các doanh nghiệp nước ngoài và bài toán tối ưu hóa lợi nhuận của các doanh nghiệp trong nước, tác giả đã đề xuất nhiều giải pháp căn cơ trong công tác quản lý và khai thác cảng container nhằm hướng đến mục tiêu đáp ứng tốt hơn các tiêu chí: nhanh chóng, kịp thời, giảm thiểu và rút ngắn thời gian lưu cảng. Bên cạnh đó, luận án cũng trình bày nhiều giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng phục vụ, phát triển vận tải đa phương thức quốc tế ở Việt Nam.

    Nghiên cứu “Phát triển các dịch vụ logistics ở nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế” (2011) của Giáo sư, Tiến sĩ Đặng Đình Đào: Nghiên cứu đã chỉ ra thực tế cho đến thời điểm hiện tại, ở Việt Nam, logistics mới chỉ dừng ở mức được công nhận là một hoạt động thương mại trong Luật Thương mại sửa đổi (có hiệu lực từ ngày 01/01/2006). Song, vì tính chất bao phủ rộng, có tính liên ngành, giao thoa giữa các ngành giao thông vận tải, thương mại dịch vụ, hải quan và công nghệ thông tin nên các quy định hiện hành vẫn tồn tại nhiều khoảng trống, cũng như nhiều vấn đề quản lý quan trọng vẫn đang bị bỏ ngỏ. Việc điều tiết các hoạt động logistics trên thị trường, nhất là các nội dung quản lý nhà nước về logistics, phân công, phân cấp trong quản lý,... vẫn chưa được xác định rõ ràng làm cho cấp địa phương có tình trạng chồng chéo giữa Sở Giao thông Vận tải và Sở Công Thương.

    Luận án Tiến sĩ “Phát triển logistics ở Việt Nam hiện nay” (2013) của Tiến sĩ Đinh Lê Hải Hà:Dựa trên tư duy duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp với phương pháp nghiên cứu tại bàn và tại hiện trường, tác giả đã phân tích và đánh giá thực trạng phát triển của hệ thống logistics trong nền kinh tế Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến 2013, xét trên các khía cạnh về cơ chế (chính sách - pháp luật logistics), kết cấu hạ tầng logistics (hệ thống cung ứng logistics) và môi trường cạnh tranh. Logistics là một chuỗi các hoạt động rất phức tạp có liên quan tới toàn bộ quá trình chuyển giao hàng hóa và thông tin từ nhà sản xuất hoặc tổ chức đầu nguồn đến người sử dụng cuối cùng. Chính vì thế, các hoạt động này có thể cùng một lúc chịu tác động của nhiều hệ thống các quy định, tập quán, thông lệ quốc tế, các cam kết quốc tế cũng như hệ thống văn bản luật pháp quốc gia. Các yếu tố này có thể được chia thành: Luật pháp, thông lệ và tập quán quốc tế, các cam kết quốc tế của WTO cũng như các hiệp định song phương về dịch vụ logistics, các quy định của luật pháp quốc gia liên quan đến dịch vụ và hoạt động logistics.

    Luận án Tiến sĩ “Tác động dịch vụ logistics đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất trên địa bàn tỉnh Quảng Bình” (2015) của Tiến sĩ Nguyễn Xuân Hảo: Tác giả đã tiến hành nghiên cứu 6 nhóm yếu tố dịch vụ logistics tác động đến hiệu quả hoạt động kinh doanh trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Kết quả nghiên cứu cho thấy, cả 6 yếu tố (chất lượng dịch vụ của các nhà phân phối, chất lượng dịch vụ của các nhà cung cấp vật tư nguyên liệu, chất lượng dịch vụ các nhà cung cấp dịch vụ logistics khác, mức độ sử dụng dịch vụ cơ bản, mức độ sử dụng dịch vụ gia tăng, mức độ tin dùng dịch vụ logistics thuê ngoài) đều có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Theo đó, mức độ tin dùng dịch vụ logistics thuê ngoài chỉ xếp sau chất lượng dịch vụ của các nhà cung cấp dịch vụ khác. Chất lượng dịch vụ của các nhà phân phối đứng thứ 3 đến mức độ hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp. Nghiên cứu cũng chỉ ra nhiều hạn chế về chất lượng cơ sở hạ tầng logistics trên địa bàn tỉnh Quảng Bình cùng nhiều giải pháp hướng đến nâng cao năng lực cạnh tranh doanh nghiệp logistics.

    Nghiên cứu “Giải pháp logistics phát triển đường sắt Việt Nam” (2017) của Giáo sư, Tiến sĩ Đặng Đình Đào: Theo nghiên cứu, cơ sở hạ tầng logistics hiện chưa nhận được sự quan tâm đúng mực từ các địa phương. Dù đóng vai trò nòng cốt trong sự phát triển của toàn ngành, nhưng sự yếu kém trong đầu tư hạ tầng logistics đã dẫn tới hàng loạt hệ quả như chi phí logistics đang cao hơn hẳn so với các nước trong khu vực. Bên cạnh đó, hệ thống giấy tờ và thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động logistics như thủ tục thông quan, cảng biển,… còn phức tạp, gây mất thời gian và khiến chi phí tăng cao.

    Luận án Tiến sĩ “Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành dịch vụ logistics Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” (2018) của Tiến sĩ Bùi Duy Linh: Tác giả đã tiến hành khảo sát 423 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực logistics tại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy, có 6 nhóm nhân tố tác động đến năng lực cạnh tranh ngành dịch vụ logistics Việt Nam bao gồm: (1) sự phát triển hạ tầng cơ sở logistics; (2) sự phát triển của khung thể chế, pháp lý, điều chỉnh hoạt đồng logistics; (3) chất lượng nguồn nhân lực ngành logistics; (4) chi phí logistics; (5) tính hiệu quả của các quy trình, thủ tục, năng lực của các nhà cung cấp dịch vụ logistics; (6) nhu cầu và tiềm năng phát triển của dịch vụ logistics. Nghiên cứu cũng chỉ ra chất lượng nguồn nhân lực và hệ thống chính sách pháp luật là 2 yếu tố tác động mạnh nhất đến năng lực cạnh tranh ngành Logistics Việt Nam trong bối cảnh hội nhập sâu rộng kinh tế quốc tế. Nghiên cứu cũng cho thấy, việc giảm chi phí logistics và yếu tố chất lượng dịch vụ logistics có mức độ ảnh hưởng tương đối thấp.

    Luận án Tiến sĩ “Nghiên cứu về pháp luật Việt Nam đối với dịch vụ logistics trong hoạt động thương mại điện tử” (2018) của Tiến sĩ Tạ Thị Thùy Trang: Trong nghiên cứu, tác giả đã xem xét thực trạng và chỉ ra pháp luật trong các hoạt động thuộc dịch vụ logistics có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến chuỗi các hoạt động thương mại điện tử tại Việt Nam. Các tác động này đã và đang diễn ra song song với sự phổ biến và tốc độ tăng trưởng nhanh chóng, liên tục của thế giới số. Vì lý do đó, dịch vụ logistics được xem là bệ phóng vững chắc cho sự bùng nổ và khẳng định giá trị kinh tế - xã hội của nền thương mại điện tử.

    Nghiên cứu “Các yếu tố tác động đến sự phát triển của doanh nghiệp logistics khu vực Đồng bằng sông Cửu Long” (2019) của tác giả Nguyễn Thị Tuyết Nga: Tác giả đã tiến hành nghiên cứu định lượng, thông qua phương pháp phân tích nhân tố khám phá và phân tích hồi quy đa biến đã chỉ rõ 4 yếu tố tác động đến phát triển của các doanh nghiệp kinh doanh logistics tại Đồng bằng sông Cửu Long. Kết quả khảo sát từ 331 doanh nghiệp logistics có hoạt động kinh doanh tại khu vực đã chỉ ra 4 nhóm yếu tố tác động như sau: (1) yếu tố về chính sách của địa phương; (2) yếu tố về môi trường kinh doanh; (3) yếu tố về vốn; (4) yếu tố về năng lực nội tại của doanh nghiệp. Kết quả phân tích định lượng cho thấy, yếu tố môi trường kinh doanh và yếu tố chính sách của địa phương có tác động đáng kể lên khả năng phát triển của các doanh nghiệp. Yếu tố năng lực nội tại và yếu tố về vốn lần lượt xếp vị trí thứ 3 và thứ 4 về mức độ tác động.

    Nghiên cứu sự phát triển hệ thống logistics Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam (Đoàn Ngọc Ninh, 2019): Nghiên cứu đã chỉ ra Chính phủ Trung Quốc luôn có những chính sách khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào hệ thống logistics, kêu gọi các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia đầu tư vào hệ thống logistics quốc gia. Từ những thành tựu đó, tác giả đã rút ra những bài học kinh nghiệm cho dịch vụ logistics tại Việt Nam.

    3.4. Đánh giá chung về tình hình logistics tại Việt Nam thông qua các nghiên cứu trên
    Nhìn chung, Logistics có thể coi là ngành dịch vụ quan trọng trong cơ cấu tổng thể của nền kinh tế quốc dân, có vai trò hỗ trợ, kết nối và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế đất nước. Logistics Việt Nam bắt đầu được hình thành và phát triển từ những năm 1990, nhưng chỉ trong thời gian ngắn đã phát triển mạnh mẽ và dần khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế.

    Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, hiện thị trường logistics Việt Nam có khoảng 3.000 doanh nghiệp trong nước và 30 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xuyên quốc gia, có thể kể đến các doanh nghiệp lớn, như: DHL, FedEx, Maersk Logistics, APL Logistics,… Đa phần các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, cung cấp từ 2 đến 17 dịch vụ logisitics khác nhau, tập trung vào: giao nhận, vận tải nội địa, khai thác cảng biển và cảng hàng không, quản lý hàng và vận tải quốc tế,... Trong đó, vận tải là dịch vụ quan trọng nhất trong hệ thống logistics của Việt Nam.

    Theo Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam, trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng của ngành Logistics tại Việt Nam tương đối cao, đạt khoảng 14 - 16%, với quy mô khoảng 4 - 5% GDP.

    Có thể thấy dịch vụ logistics tại Việt Nam đang không ngừng thay đổi qua từng năm. Từ một hệ thống nghèo nàn, lạc hậu và rời rạc của những năm 2002 (qua nghiên cứu của viện Nomura), logistics Việt Nam đã từng bước chuyển mình, dần đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước và thích nghi với xu thế phát triển của toàn cầu.

    Tuy vậy, ngành Logistics Việt Nam vẫn còn nhiều vấn đề chưa được tiếp cận và nghiên cứu một cách có hệ thống. Chính vì những lý do đó, cần có những giải pháp hợp lý để khắc phục những vấn đề này trong thời gian tới. Qua đó, các cơ quan hữu quan cũng như các doanh nghiệp có thể theo đuổi mục tiêu phát triển bền vững ngành Logistics.

    4. Mô hình nghiên cứu đề xuất các yếu tố tác động đến phát triển bền vững ngành Logistics Việt Nam
    4.1. Mục tiêu đề xuất mô hình nghiên cứu
    Mục tiêu tổng quát của nghiên cứu là đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành Logistics ở Việt Nam hiện nay. Mục tiêu này được xây dựng dựa trên các vấn đề cấp bách mà ngành dịch vụ logistics đang gặp phải cũng như kế thừa kết quả từ các nghiên cứu đi trước, bao gồm các vấn đề chính như:

    • Hệ thống chính sách - pháp luật chưa đồng nhất, còn nhiều vấn đề bị trùng lặp giữa các cơ quan quản lý của Nhà nước;

    • Cơ sở hạ tầng logistics còn nhiều bất cập, chưa thực sự được đổi mới và hiện đại hóa;

    • Thực trạng nguồn nhân lực trong lĩnh vực logistics;

    • Sự phát triển của công nghệ thông tin trong logistics;

    • Thương mại hàng hóa trong và ngoài nước.

    4.2. Mô hình nghiên cứu đề xuất
    Căn cứ trên thực tiễn phát triển ngành Logistics Việt Nam và việc tổng hợp một cách có hệ thống các nghiên cứu về các yếu tố tác động đến ngành Logistics Việt Nam, tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu các yếu tố tác động đến phát triển bền vững ngành Logistics Việt Nam.

    Sơ đồ 1: Mô hình nghiên cứu đề xuất

    Mô hình nghiên cứu đề xuất

    Nguồn: Tác giả tổng hợp và đề xuất

    5. Kết luận
    Nghiên cứu được thực hiện dựa trên cơ sở tổng hợp và hệ thống hóa quá trình hình thành, phát triển và kiện toàn của khái niệm và các yếu tố tác động đến ngành Logistics nói chung và phát triển bền vững ngành Logistics Việt Nam nói riêng. Trên cơ sở mô hình nghiên cứu đề xuất, tác giả kỳ vọng sẽ có thêm nhiều nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng chuyên sâu về chủ đề phát triển bền vững ngành Logistics Việt Nam. Qua đó, góp thêm nhiều kiến nghị và giải pháp kịp thời mang tính định hướng và thực tiễn trong công cuộc nâng cao vị thế cạnh tranh ngành Logistics Việt Nam.

    TÀI LIỆU THAM KHẢO:

    Asian Development Bank, ADB (2007), Development Study on the North - South Economic Corridor. [Online] Avalabile at https://www.adb.org/projects/documents/greater-mekong-subregion-development-study-north-south-economic-corridor
    Banomyong, R., P. Cook and P. Kent (2008), Formulating regional logistics development policy: the case of ASEAN. International Journal of Logistics, 11(5), 359-379.
    Blancas Luis C., Isbell John, Isbell Monica, Tan Hua Joo, Tao Wendy. (2014), Efficient Logistics: A Key to Vietnam’s Competitiveness. Directions in Development - Countries and Regions. Washington, DC: World Bank.
    Bùi Duy Linh (2018), Nâng cao năng lực của ngành dịch vụ logistics Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Luận án Tiến sĩ, Đại học Ngoại thương Hà Nội.
    Business Monitor International (2011), Vietnam Freight Transport Report 2011, include 5 - year forecast to 2015. United Kingdom: ResearchAndMarkets.com.
    Christopher, M. (1998), Logistics and Supply Chain Management. New York: McGraw - Hill.
    Đặng Đình Đào (2011), Phát triển các dịch vụ logistics ở nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế, Đề tài nghiên cứu khoa học độc lập cấp Nhà nước. Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển, Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
    Đặng Đình Đào (2017), Giải pháp logistics phát triển đường sắt Việt Nam. Truy cập tại http://vlr.vn/ logistics/news-3329.vlr
    Đặng Đình Đào, Nguyễn Minh Sơn (2012), Dịch vụ logistics ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế. Hà Nội, NXB Chính trị quốc gia.
    Đặng Đình Đào. Vũ Thị Minh Loan, Nguyễn Minh Ngọc, Đặng Thu Hương, Phạm Thị Minh Thảo (2011), Logistics: Những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam (sách chuyên khảo). Hà Nội, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân.
    Đinh Lê Hải Hà (2010), Thực trạng và các giải pháp phát triển các dịch vụ logistics chủ yếu ở nước ta trong hội nhập kinh tế quốc tế. Chuyên đề số 15, thuộc Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước: “Phát triển dịch vụ logistics ở nước ta trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, Mã số ĐTĐL 2010T/33, Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển, Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội.
    Đinh Lê Hải Hà (2013), Nghiên cứu về phát triển logistics ở Việt Nam hiện nay. Luận án Tiến sĩ, Viện nghiên cứu Thương mại, Bộ Công Thương.
    Đoàn Ngọc Ninh (2019), Nghiên cứu sự phát triển hệ thống logistics Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Truy cập tại https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/nghien-cuu-su-phat-trien-he-thong-logistics-trung-quoc-va-bai-hoc-kinh-nghiem-cho-viet-nam-69702.htm
    Đoàn Thị Hồng Vân (2003), Logistics - Những vấn đề cơ bản. Hà Nội, Nhà xuất bản Lao động - Xã hội.
    Edward Frazelle (2003), Supply Chain Strategy (Logistics Management Library). New York: McGraw - Hill.
    Nguyễn Hồng Vân (2007), Hoàn thiện thủ tục giao nhận hàng hóa trong vận tải đa phương thức tại Việt Nam. Luận án Tiến sĩ, Đại học Hàng hải.
    Nguyễn Quốc Tuấn (2015), Quản lý nhà nước đối với dịch vụ logistics ở cảng Hải Phòng. Luận án Tiến sĩ kinh tế, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương.
    Nguyễn Thị Phương (2008), Các giải pháp cơ bản hoàn thiện công tác quản lý và khai thác cảng container phục vụ vận tải đa phương thức ở Việt Nam. Luận án Tiến sĩ, Đại học Hàng hải.
    Nguyễn Thị Tuyết Nga (2019), Các yếu tố tác động đến sự phát triển của doanh nghiệp logistics khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí Tài chính, 701, 101-105.
    Nguyễn Xuân Hảo (2015), Tác động dịch vụ logistics đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội.
    Nomura Research Institute (2002). Vietnam logistics development, trade facilitation and the impact on poverty reduction. [Online] Avalabile at https://documents.worldbank.org/en/publication/documents-reports/ documentdetail/622581468776113788/vietnam-logistics-development-trade-facilitation-and-the-impact-on-poverty-reduction
    Quốc hội (2005). Luật số 36/2005/QH11: Luật Thương mại, Điều 233, ban hành ngày 14 tháng 6 năm 2005.
    Quốc hội (2017). Luật số 05/2017/QH14: Luật Quản lý Ngoại thương, Điều 105, ban hành ngày 12 /6/2017.
    Samaras, Steven Andrew (2000). Competing upstream: Inbound logistics as a source of competitive advantage. ETD collection for University of Nebraska - Lincoln, USA.
    Singapore Logistics Association (2005, 2006, 2007, 2008, 2009, 2010, 2011). Annual Report on Singapore Logistics Development. Singapore.
    Sullivan, F. (2006), Vietnam transportation and logistics: opportunities and challenges. APL Logistics.
    Tạ Thị Thùy Trang (2018), Pháp luật Việt Nam về dịch vụ logistics trong hoạt động thương mại điện tử. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, 17(369), 48-53.
    UNCTAD. (2004). Trade Logistics and Facilitation: An Exercise in International Cooperation.
    UNCTAD. (2005). Negotiations on transport and logistics services: issues to consider.
    Vũ Thế Bình (2000). Hoàn thiện phương pháp lựa chọn container trong vận tải đa phương thức ở Việt Nam. Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Hàng hải.
    Zhang, Chengmin; Lu, Chuan. (2013). An Evaluation Approach for Regional Logistics Abilities, University of Gavle. [Online] Avalabile at https://www.diva-portal.org/smash/get/diva2:634364/FULLTEXT01.pdf
    RESEARCH OVERVIEW ON LOGISTICS AND

    PROPOSE FACTORS AFFECTING SUSTAINABLE

    DEVELOPMENT VIETNAM LOGISTICS INDUSTRY

    • Ph.D’s student VUONG THI BICH NGA

    Foreign Trade University - Ho Chi Minh City Campus

    ABSTRACT:

    This paper analyzes logistics concepts in order to present an overview about the establishment and development of the logistics concept in the world in general and in Vietnam in particular. This paper also introduces factors affecting the logistics industry, proposes a research model and introduces some research directions on the factors affecting the sustainable development of Vietnam's logistics industry.

    Keywords: logistics, sustainable development, sustainable logistics.

    [Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 15, tháng 6 năm 2021]

    Khái niệm logistics logistics chuỗi cung ứng supply chain

  • Nghiên cứu tổng quan về logistics và đề xuất các yếu tố tác động đến sự phát triển bền vững ngành Logistics Việt Nam
    Logistics QTL Logistics QT

    NCS. VƯƠNG THỊ BÍCH NGÀ (Cơ sở 2, Trường Đại học Ngoại thương tại Thành phố Hồ Chí Minh)
    TÓM TẮT:

    Bài nghiên cứu giới thiệu và phân tích các khái niệm logistics thường được dùng, từ đó hệ thống hóa quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện khái niệm logistics. Bên cạnh đó, tác giả cũng tập trung làm rõ các yếu tố tác động đến ngành Logistics, đề xuất mô hình nghiên cứu về các yếu tố tác động đến phát triển bền vững ngành Logistics Việt Nam.

    Từ khóa: logistics, phát triển bền vững, logistics bền vững.

    1. Đặt vấn đề
      Logistics bắt đầu xuất hiện trong các cuộc chiến tranh của đế chế Hy Lạp và La Mã khi các binh sĩ vận chuyển, phân phối các nhu yếu phẩm như: lương thực, vũ khí, thuốc men,… đến các doanh trại với sự phối hợp của nhiều người cùng quy trình quản lý chặt chẽ nhằm tránh sự phá hoại từ đối thủ. Từ đó dần hình thành nên một hệ thống mà hiện nay gọi là quản lý logistics.

    Vai trò của logistics ngày càng được khẳng định khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Điều này đã được Mỹ và các đồng minh thực hiện vô cùng tốt khi cung cấp vũ khí, đạn dược, quân trang đúng thời điểm một cách tối ưu. Chiến tranh thế giới thứ hai đã thúc đẩy và tạo ra nhiều ứng dụng về logistics được phát triển đến ngày nay.

    Cùng với sự phát triển vũ bão của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là bước tiến lớn của cách mạng công nghiệp 4.0, logistics dần trở thành một công cụ, một công việc không thể thiếu của mỗi doanh nghiệp trong mọi lĩnh vực, nhất là trong lĩnh vực sản xuất - kinh doanh. Khi logistics hoạt động không hiệu quả, dây chuyền sản xuất của doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng đến chất lượng và thời gian. Chính vì vậy, đã có rất nhiều nghiên cứu nhằm đưa ra một khái niệm, phương diện hoạt động và các yếu tố tác động đến sự phát triển của logistics, nhằm giúp doanh nghiệp hạn chế được bất cập trong quy trình quản lý logistics của doanh nghiệp, từ đó hạn chế được các bất cập tác động đến hoạt động sản xuất - kinh doanh. Do vậy, bài viết sẽ giới thiệu và phân tích các khái niệm logistics thường được dùng, từ đó hệ thống hóa quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện khái niệm logistics, đề xuất mô hình nghiên cứu về các yếu tố tác động đến phát triển bền vững ngành Logistics Việt Nam.

    1. Khái niệm logistics
      2.1. Quá trình hình thành và phát triển khái niệm logistics
      Logistics là thuật ngữ chuyên ngành, có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, theo đó trong tiếng Việt từ tương đương gần nhất là “hậu cần”. Logistic có khái niệm bắt nguồn từ nhu cầu quân sự trong việc cung cấp cho quân đội trong quá trình di chuyển của các đoàn quân từ căn cứ ra tiền tuyến. Trong thời Hy Lạp cổ đại, Đế chế Roman và Byzantine đã có những sỹ quan đảm nhận vai trò “logistikas”, là người chịu trách nhiệm đến các vấn đề về tài chính cũng như cung cấp phân phối.

    Logistics có khái niệm liên quan đến kinh doanh bắt nguồn từ những năm 1950. Điều này chủ yếu do sự gia tăng việc cung cấp, vận chuyển trong một thế giới toàn cầu hóa, đòi hỏi phải có những chuyên gia trong lĩnh vực này. Hiểu một cách đơn giản, logistics là một phần của chuỗi cung ứng, bao gồm tổng thể những công việc liên quan đến hàng hóa gồm: đóng gói, vận chuyển, lưu kho, bảo quản, cho tới khi hàng được giao đến người tiêu thụ cuối cùng. Một cách chi tiết hơn, logistics là một trong những ngành “dịch vụ hậu cần”, được hiểu đơn giản nhất là quá trình chuẩn bị hàng hóa, sắp xếp, đóng gói, kẻ kí mã hiệu và bảo quản hàng hóa, vận chuyển hàng hóa ra cảng và làm thủ tục thông quan xuất khẩu hoặc nhập khẩu cho hàng (Tào Thị Hải, 2020).

    Năm 1988, Hội đồng Quản trị logistics Hoa Kỳ (LAC - The US. Logistics Administration Council) đưa ra khái niệm: “Logistics là quá trình lập kế hoạch, thực hiện và kiểm soát dòng di chuyển và lưu kho những nguyên vật liệu thô của hàng hóa trong quy trình, những hàng hóa thành phẩm và những thông tin có liên quan, từ khâu mua sắm nguyên vật liệu cho đến khi được tiêu dùng, với mục đích thỏa mãn yêu cầu của người tiêu dùng”.

    Năm 1998, Christopher định nghĩa logistics như sau: Logistics là quá trình quản lý chiến lược mua sắm, vận chuyển và lưu trữ nguyên liệu, các bộ phận và hàng tồn kho thành phẩm cùng luồng thông tin có liên quan thông qua tiến trình tổ chức và thực hiện các kênh tiếp thị. Logistics không dừng lại ở việc xử lý hay vận chuyển, mà còn bao gồm tổ hợp các hoạt động như truyền thông, dịch vụ khách hàng, nội địa hóa, hậu cần (Stock và Lambert, 2001) và lập kế hoạch có liên quan mật thiết đến thương mại và sản xuất (Grant và cộng sự, 2006).

    Năm 1999, giáo trình Logistics and Supply Chain Management của Trường Đại học Hàng hải Thế giới (World Maritime University) đã đưa ra khái niệm “Logistics là quá trình tối ưu hóa về vị trí, lưu trữ và vận chuyển các tài nguyên hay các yếu tố đầu vào từ điểm xuất phát là nhà cung ứng, thông qua các nhà sản xuất, người bán buôn, bán lẻ, đến tay người tiêu dùng thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế”.

    Năm 2001, Hội đồng các chuyên gia Quản trị Chuỗi cung ứng Hoa Kỳ (CSCMP - Council of Supply Chain Management Professionals) đưa ra một khái niệm chính xác và toàn diện. Theo đó, “Logistics được định nghĩa là một bộ phận của chu trình chuỗi cung ứng, bao gồm các quá trình hoạch định kế hoạch, thực hiện và kiểm soát một cách hiệu quả việc dự trữ và lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ, thông tin hai chiều giữa điểm khởi đầu và điểm tiêu dùng nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng”.

    Năm 2003, trong tác phẩm Supply Chain Strategy, Chủ tịch Học viện Nghiên cứu Logistics Georgia, Hoa Kỳ, ông Edward Frazelle đã nhận định: “Logistics là quá trình lưu chuyển của vật tư, thông tin và tiền tệ từ người cung ứng đến người tiêu dùng cuối cùng”. Cũng trong năm 2003, tại Việt Nam, GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân đã định nghĩa trong tài liệu “Logistics - Những vấn đề cơ bản” như sau: “Logistics là quá trình tối ưu hóa các hoạt động vận chuyển và dự trữ hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ cuối cùng thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế”. Theo đó, logistics là các hoạt động (dịch vụ) liên quan đến hậu cần và vận chuyển, bao gồm các công việc liên quan đến cung ứng, vận tải, theo dõi sản xuất, kho bãi, thủ tục phân phối, hải quan,… Hay hiểu theo cách khác, logistics là tập hợp các hoạt động của nhiều ngành nghề, công đoạn trong một quy trình hoàn chỉnh.

    Năm 2004, theo Hội nghị Liên hiệp quốc về Thương mại và Phát triển, còn được biết đến với tên gọi Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên hiệp quốc (UNCTAD - United Nations Conference on Trade and Development) cho biết: “Logistics là có được thứ cần thiết tại địa điểm và thời gian đúng nhất”. Mặc dù được dùng tương đối phổ biến, song theo tác giả, đây không phải là một định nghĩa chuẩn, bởi nó chưa trình bày được nội hàm, nội dung các hoạt động, nghiệp vụ của khái niệm logistics. Việc dùng định nghĩa này cũng là một trong các nguyên nhân khiến logistics trở nên mơ hồ, dẫn đến sự thiếu hiểu biết, hay những nhầm lẫn phổ biến về logistics như hiện nay.

    Năm 2005, tại kỳ họp thứ 7, khóa XI, ngày 14/6/2005, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Thương mại 2005, trong đó có qui định cụ thể khái niệm dịch vụ logistics. Tại điều 233 - Mục 4 - Chương VI của Luật Thương mại quy định: “Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công đoạn bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi mã ký hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan tới hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao”.

    Năm 2015, trong Luận án Tiến sĩ Quản lý nhà nước đối với dịch vụ Logistics ở Cảng Hải Phòng, tác giả Nguyễn Quốc Tuấn cho rằng: “Logistics là một chuỗi các hoạt động liên tục, có quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, được thực hiện một cách khoa học và có hệ thống qua các bước nghiên cứu, hoạch định, tổ chức, quản lý, thực hiện, kiểm tra, kiểm soát và hoàn thiện các hoạt động, bao gồm các công việc liên quan đến cung ứng, vận tải, theo dõi sản xuất, kho bãi, thủ tục phân phối, hải quan,... Do đó, logistics là quá trình liên quan tới nhiều hoạt động khác nhau trong cùng một tổ chức, từ xây dựng chiến lược cho đến các hoạt động chi tiết, cụ thể để thực hiện chiến lược”.

    Năm 2020, Tào Thị Hải, trong bài nghiên cứu “Phát triển đô thị cảng Đà Nẵng với dịch vụ logistics trong thập niên 2020-2030” cho thấy: “Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công đoạn, bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi kí mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan tới hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao” (Tào Thị Hải, 2020).

    2.2. Hướng tiếp cận phổ biến hiện nay
    Hiện nay có rất nhiều ý kiến cho thấy khó có thể tìm được một từ tương đương trong tiếng Việt thay thế cho khái niệm logistics trong tiếng Anh, vì thế người ta vẫn giữ nguyên thuật ngữ logistics trong các nghiên cứu và tài liệu chuyên môn. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế sâu rộng, khái niệm về logistics không ngừng thay đổi và phát triển theo hướng mở rộng cả về mức độ và phạm vi hoạt động trên tinh thần kế thừa, phát huy và kiện toàn các khái niệm đã được giới thiệu trước đó. Nói cách khác, khái niệm chính thức về logistics vẫn đang dần được hoàn thiện. Tuy vậy, có thể khái quát và phân loại khái niệm logistics thành 2 hướng tiếp cận: (1) Nhóm định nghĩa hẹp và (2) Nhóm định nghĩa rộng.

    Nhóm định nghĩa hẹp cho rằng: dịch vụ logistics chủ yếu dừng lại ở các dịch vụ liên quan đến hàng hóa. Các khái niệm trong nhóm đều cho rằng bản chất của dịch vụ logistics là việc tập hợp các yếu tố hỗ trợ cho quá trình vận chuyển sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ cuối cùng. Tiêu biểu nhất là khái niệm logistics được đề cập trong Luật Thương mại 2005. Tuy vậy, định nghĩa trong Luật Thương mại 2005 vẫn được đề cập theo hướng mở. Cụ thể, bên cạnh việc liệt kê một cách có hệ thống các phương diện của khái niệm logistics, Luật vẫn để ngỏ “các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa” cho công tác quản lý trong tương lai. Nhóm định nghĩa hẹp nhấn mạnh sợi dây liên kết đến nhiều yếu tố như vận tải, lưu kho, lưu bãi,... Hơn nữa, người cung cấp dịch vụ logistics không có quá nhiều sự khác biệt so với người cung cấp dịch vụ vận tải đa phương thức (Nguyễn Xuân Viễn, 2020).

    Nhóm định nghĩa rộng gắn logistics với 2 giai đoạn cụ thể: (1) quá trình nhập nguyên vật liệu đầu vào và (2) hàng hóa được cung ứng đến tay người tiêu dùng. Nhóm định nghĩa rộng phân định rõ ràng vai trò của từng nhà cung cấp các dịch vụ đơn lẻ như: dịch vụ vận tải, dịch vụ giao nhận, dịch vụ khai hải quan, dịch vụ tư vấn pháp lý, dịch vụ hỗ trợ sản xuất, dịch vụ phân phối hàng hóa,... Có thể thấy, nhóm định nghĩa rộng có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần phân định rõ ràng giữa một bên là các nhà cung cấp từng dịch vụ đơn lẻ với bên còn lại là một nhà cung cấp dịch vụ logistics chuyên nghiệp, cũng chính là người đảm nhận toàn bộ các khâu trong quá trình hình thành và đưa hàng hóa đến tay người tiêu dùng cuối cùng (Tào Thị Hải, 2020).

    1. Các yếu tố tác động đến sự phát triển bền vững ngành logistics Việt Nam
      3.1. Khái niệm phát triển bền vững
      Theo Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới (World Commission on Environment and Development - WCED) giới thiệu trong tác phẩm Our Common Future xuất bản năm 1987: Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm phương hại đến khả năng đáp ứng các nhu cầu của các thế hệ trong tương lai (WCED, 1987).

    Còn theo UNESCO: Phát triển bền vững có thể được xem như một tương lai, trong đó tầm quan trọng của các yếu tố về môi trường, xã hội và kinh tế được cân bằng, hướng đến mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống (UNESCO, 2000).

    Nhiều nghiên cứu định tính và định lượng trên thế giới đã cho thấy phát triển bền vững là khái niệm bậc 2, được đo lường thông qua 3 phương diện cụ thể là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và phát triển môi trường (Bansal, 2005; Chen và Chow, 2012; Lee và Saen, 2012).

    3.2. Các nghiên cứu nước ngoài về phát triển ngành logistics
    Nghiên cứu của viện Nomura: Trong số các nghiên cứu về logistics Việt Nam của các tác giả nước ngoài, nghiên cứu “Vietnam logistics development, trade facilitation and the impact on poverty reduction” của Viện Nghiên cứu Nomura (Nhật Bản) công bố năm 2002 là một trong những nghiên cứu phổ biến nhất. Nghiên cứu của Viện Nomura đã chỉ ra các nhà cung cấp dịch vụ logistics ở Việt Nam hiện tại chỉ mới đáp ứng được 25% nhu cầu cơ bản của thị trường logistics. Nghiên cứu này cũng đưa ra nhận định giá cả dịch vụ logistics rẻ là một lợi thế của Việt Nam, nhưng chất lượng dịch vụ không đảm bảo, sự kém phát triển của các công ty giao nhận địa phương chính là những khó khăn lớn cho thị trường logistics trong nước.

    Nghiên cứu của Samaras: Steven A. Samaras (2000) đã tiến hành nghiên cứu “Competing upstream: Inbound logistics as a source of competitive advantage” với mục tiêu nghiên cứu về các yếu tố giúp cải thiện và nâng cao lợi thế cạnh tranh dịch vụ logistics đầu vào (inbound logistics). Đối tượng tham gia khảo sát bao gồm 80 doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực logistics tại thời điểm nghiên cứu. Kết quả trình bày trong nghiên cứu định lượng cho thấy, có đến 65 trên tổng số 80 doanh nghiệp (tức chiếm 81,25% doanh nghiệp được khảo sát) đồng ý chi phí, tốc độ giao hàng và lợi thế khách hàng có mối liên hệ mật thiết đến chất lượng các dịch vụ logistics. Trong đó 11% đến từ sự khác biệt về lợi thế chi phí, 4,81% sự khác biệt được ghi nhận về lợi thế khách hàng và 4,42% về tốc độ giao hàng.

    Nghiên cứu của Blancas và cộng sự: Trong nghiên cứu “Efficient Logistic - A Key to Vietnam’s Competitiveness”, Blancas và cộng sự đã tập trung nghiên cứu và đề xuất 5 nhóm giải pháp với mục tiêu cải thiện, tăng cường, nâng cao độ tin cậy và hiệu suất trong hoạt động vận tải, kho vận và tổng thể chuỗi cung ứng nội địa, quốc tế của Việt Nam. 5 nhóm giải pháp lần lượt được trình bày bao gồm: (1) hiện đại hóa song song với việc đồng bộ hệ thống hải quan; (2) nỗ lực tăng cường tính minh bạch; (3) tăng cường công tác quy hoạch, quản lý và tổ chức thực hiện hành lang vận tải đa phương thức nói chung và vận tải đa phương thức quốc tế nói riêng; (4) chú trọng quan tâm phát triển hệ thống giao thông đường bộ; (5) nghiên cứu và đề xuất các giải pháp, tạo điều kiện hội nhập với các quốc gia và vùng lãnh thổ.

    Nghiên cứu của Ruth Banomyong: Trong nghiên cứu “Formulating regional logistics development policy: The case of ASEAN”, R. Banomyong đã lần lượt trình bày hệ thống đánh giá năng lực cạnh tranh ngành Logistics của các quốc gia trong khu vực ASEAN, trong đó có Việt Nam. Theo đó, bộ tiêu chí bao gồm 4 yếu tố: (1) tiềm lực phát triển cơ sở hạ tầng logistics; (2) sự kiện toàn và phát triển của khung thể chế, chính sách, pháp luật liên quan đến công tác quản lý logistics; (3) năng lực của các nhà cung cấp dịch vụ, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực logistics và (4) năng lực của doanh nghiệp sử dụng dịch vụ logistics đánh giá dựa trên quy mô doanh nghiệp, tập quán kinh doanh, các hệ thống logistics được thiết kế, khả năng tiếp cận với các dịch vụ logistics khác,…

    Nghiên cứu của Sullivan: Sullivan (2006) trong nghiên cứu “Vietnam Transportation and Logistics: Opportunities and Challenges” đã chỉ ra thực trạng, những cơ hội và thách thức mà lĩnh vực vận tải và logistics của Việt Nam đang đối mặt. Trong nghiên cứu này, tác giả lần lượt phân tích các cơ hội và thách thức của ngành Vận tải hàng hóa, liên quan đến các hình thức vận tải phổ biến tại Việt Nam như vận tải đường bộ, vận tải đường sắt, vận tải đường hàng không và vận tải đường thủy. Trên cơ sở phân tích, tác giả đã đưa ra nhiều giải pháp kiến nghị đến các cơ quan hữu quan nhằm nắm bắt cơ hội và giải quyết căn cơ những khó khăn, thách thức.

    Nghiên cứu của ADB: Ngân hàng Phát triển châu Á (Asian Development Bank - ADB), trong nghiên cứu quy mô lớn “Development Study on the North - South Economic Corridor” (2007) đã đưa ra quan điểm về hệ thống logistics quốc gia như sau: Một hệ thống logistics được cấu thành từ 4 thành phần chính: (1) những người sử dụng dịch vụ logistics, tức là những doanh nghiệp xuất nhập khẩu, nhà thương mại, người chuyên gửi hàng và nhận hàng; (2) các nhà cung cấp dịch vụ logistics công cộng và tư nhân; (3) các thể chế, chính sách - pháp luật và quy định liên quan đến logistics do quốc gia và chính quyền địa phương ban hành; (4) kết cấu hạ tầng giao thông vận tải và thông tin liên lạc. ADB cũng nhận định, thực tế hiệu quả hoạt động của hệ thống logistics được đánh giá bởi 4 tiêu chí cụ thể, bao gồm: hiệu quả về chi phí, mức độ thuận tiện, mức độ tin cậy và mức độ an toàn.

    Nghiên cứu của Business Monitor International: Tổ chức Business Monitor International (Vương quốc Anh) đã xuất bản các báo cáo liên quan đến Vận tải hàng hóa ở Việt Nam trong 2 năm 2009 và 2011. Những báo cáo này tuy không phân tích chi tiết toàn bộ hệ thống logistics của Việt Nam, nhưng tập trung đánh giá tình hình vận tải hàng hóa Việt Nam theo các phương thức vận tải như: vận tải đường bộ, vận tải đường hàng không, vận tải đường sắt, vận tải đường thủy. Bên cạnh đó, tình hình kết cấu hạ tầng giao thông vận tải của Việt Nam trong thời gian nghiên cứu diễn ra cũng được xem xét và đánh giá một cách có hệ thống. Bằng phương pháp phân tích SWOT, các báo cáo này đã tiếp cận và trình bày nội dung nghiên cứu. Trên cơ sở những phân tích nêu trên, các báo cáo của Business Monitor International đã góp phần đưa ra những khuyến cáo cụ thể và chi tiết để khắc phục tình trạng chậm phát triển của hệ thống hạ tầng logistics tại Việt Nam.

    Nghiên cứu của Zhang và Lu: Sử dụng mô hình SWOT, PEST, mô hình phân tích thứ bậc (AHP - Analytic Hierarchy Process) và mô hình chức năng, nhóm tác giả đã tiến hành xem xét và phân tích những điểm mạnh và hạn chế về năng lực logistics của các quốc gia trong vùng. Nghiên cứu đề xuất 12 tiêu chí nhằm đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành logistics tại các quốc gia. Trong đó bao gồm 7 nhân tố cơ bản và 5 nhân tố nâng cao. Các nhân tố cơ bản bao gồm: (1) vị trí địa lý; (2) phân bổ tài nguyên; (3) phân bố dân cư; (4) hệ thống pháp luật; (5) nguồn nhân lực và các hệ thống giáo dục đào tạo; (6) hạ tầng cơ sở liên quan đến logistics; (7) đặc trưng khí hậu và thời tiết. Nghiên cứu cũng đề cập đến 5 nhân tố nâng cao cần được xem xét khi đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành, bao gồm: (8) nhu cầu về dịch vụ logistics; (9) tác động dịch vụ logistics đến nền kinh tế; (10) dịch vụ logistics; (11) khả năng cải tiến dịch vụ và (12) tiềm năng phát triển của dịch vụ logistics trong tương lai.

    Khái niệm logistics logistics chuỗi cung ứng supply chain

  • Logistic là gì? Phân loại và đặc điểm ngành dịch vụ logistics?
    Logistics QTL Logistics QT

    Logistic là gì? Phân loại và đặc điểm ngành dịch vụ logistics?
    Logistics là quá trình đưa sản phẩm của bạn từ nhà cung cấp đến khách hàng. Nó liên quan đến việc mua sản phẩm từ các nhà cung cấp và nhà bán buôn của bạn, sản xuất, lưu trữ và phân phối các sản phẩm đó. Sẽ rất hữu ích nếu bạn hiểu sâu sắc về hệ thống logistics của mình để tối đa hóa lợi nhuận trong khi cung cấp cho khách hàng trải nghiệm tốt nhất có thể. Trong bài viết này, GOODVN thảo luận về quy trình logistics là gì, tại sao nó lại quan trọng, các thành phần của logistics là gì và nó khác với quản lý chuỗi cung ứng như thế nào?

    Logistics là gì?
    Thuật ngữ “Logistics” và “chuỗi cung ứng” (Logistics and Supply Chain Management) đôi khi được sử dụng thay thế cho nhau, nhưng logistics là một yếu tố của chuỗi cung ứng tổng thể.

    Logistics đề cập đến sự di chuyển của hàng hóa từ Điểm A đến Điểm B, bao gồm hai chức năng: vận chuyển và lưu kho. Chuỗi cung ứng tổng thể là một mạng lưới các doanh nghiệp và tổ chức làm việc theo một chuỗi các quá trình, bao gồm cả logistics, để sản xuất và phân phối hàng hóa, đảm bảo vòng đời của một sản phẩm và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp đạt hiệu quả cao nhất.

    Đặc điểm ngành dịch vụ Logistics
    Dịch vụ logistics chịu sự điều phối và quản lý của pháp luật. Vì vậy nó được kiểm soát bằng những quy định cụ thể trong luật thương mại 2005. Những đặc điểm cơ bản của logistics:

    Do thương nhân thực hiện
    Là dịch vụ có tính hoàn thiện cao nhất
    Đóng vai trò quan trọng với doanh nghiệp
    Được thực hiện trên cơ sở hợp đồng các bên

    Logistics bao gồm những hoạt động gì?
    Từ khái niệm về dịch vụ logistics, chúng ta có thể thấy được một doanh nghiệp logistics hoạt động dựa trên các nền tảng sau:

    Logistics sinh tồn

    Đây chính là nền tảng cơ bản của các hoạt động logistics nói chung. Nền tảng này hướng đến việc logistics cung ứng các nhu cầu trong cuộc sống. Nó đáp ứng các nhu cầu trong cuộc sống của con người. Hiểu nôm na, thì logistics sinh tồn chính là quá trình vận chuyển sản phẩm đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Đây cũng chính là bản chất cơ bản của các dịch vụ logistics nói chung.

    Logistics hoạt động

    Hoạt động doanh nghiệp logistics xét theo khía cạnh hoạt động sẽ gắn liền với hệ thống sản xuất của đối tác. Nó chính là các hoạt động liên quan đến vận chuyển, lưu kho cho các nguyên liệu đầu vào, đầu ra. Sau đó, phân phối sản phẩm đến các kênh phân phối (siêu thị, trung tâm thương mại, hệ thống chuỗi bán hàng, nhà phân phối, các cửa hàng nhỏ lẻ…)

    Logistics hệ thống

    Đây chính là những yếu tố giúp cho một công ty dịch vụ logistics có thể hoạt động được. Nó bao gồm nhà xưởng, công nghệ, nhân lực, máy móc thiết bị tối thiểu. Thiếu những yếu tố này, thì doanh nghiệp không thể thực hiện được dịch vụ logistics.

    Quy trình hoạt động logistics
    Các hoạt động của Logistics bao gồm:

    Dịch vụ khách hàng
    Dự báo nhu cầu
    Thông tin trong phân phối
    Kiểm soát lưu kho
    Vận chuyển nguyên vật liệu
    Quản lý quá trình đặt hàng
    Lựa chọn địa điểm nhà máy và kho
    Thu gom hàng hóa
    Đóng gói, xếp dỡ hàng
    Phân loại hàng hóa
    Hoạt động của Logistics

    Logistics là khâu trung gian để đưa hàng hoá (sản phẩm hoặc dịch vụ) đến tay người tiêu dùng nhanh nhất. Nó sẽ bao gồm các hoạt động vận tải hàng hóa xuất và nhập, quản lý đội tàu, kho bãi, nguyên vật liệu, thực hiện đơn hàng, quản trị tồn kho, hoạch định cung cầu. Ngoài ra Logistics cũng sẽ kiêm luôn việc tìm kiếm nguồn nguyên liệu đầu vào, lập kế hoạch sản xuất, đóng gói sản phẩm, dịch vụ khách hàng.

    Hoạt động của Quản lý chuỗi cung ứng

    Quản lý Chuỗi cung ứng là sự phối hợp của sản xuất – tồn kho – địa điểm và vận chuyển nhằm đáp ứng nhanh chóng và hiệu quả các nhu cầu của thị trường. Quản lý chuỗi cung ứng bao gồm tất cả các hoạt động quản lý hậu cần gồm lập kế hoạch và quản lý tất cả các hoạt động liên quan đến việc tìm nguồn cung ứng và thu mua, bao gồm tất cả hoạt động Logistics.

    Logistics khác với quản lý chuỗi cung ứng như thế nào?
    Logistics và quản lý chuỗi cung ứng tương tự nhau nhưng không hoàn toàn giống nhau. Logistics đề cập đến việc di chuyển và lưu trữ sản phẩm bên trong và bên ngoài công ty. Quản lý chuỗi cung ứng là một chuỗi các hoạt động liên kết với nhau liên quan đến quá trình sản xuất và vận chuyển hàng hóa — từ nguyên liệu thô đến thành phẩm cho đến khi đến tay khách hàng.

    Điều đó nói lên rằng, hậu cần là một phần của chuỗi cung ứng. Điều này có nghĩa là bất kỳ ai quản lý chuỗi cung ứng của công ty bạn sẽ chịu trách nhiệm quản lý các công ty chuyển phát bưu kiện, công ty vận chuyển, giao nhận hàng hóa, công ty môi giới hải quan và nhà cung cấp dịch vụ hậu cần bên thứ ba.

    Phân loại các hình thức của logistics trong xuất nhập khẩu
    1PL: First Party Logistics hay Logistics tự cấp

    Ở nhóm đầu tiên này, đa phần 1PL được áp dụng ở các công ty tự tổ chức và thực hiện các hoạt động logistics, là một trong những nguồn thu chính cũng như tăng doanh thu và tiết kiệm chi phí.

    Trong đó, hầu như mọi khâu liên quan đến vận chuyển và lưu trữ hàng hóa xuất nhập khẩu đều do công ty tự cung cấp: phương tiện vận tải, nhà xưởng, thiết bị xếp dỡ và các nguồn lực khác bao gồm cả con người để hoàn thành chu kỳ Logistics.

    II. 2PL: Second Party Logistics hay Cung cấp dịch vụ logistics bên thứ hai

    2PL là một hình thức thuê dịch vụ từ bên thứ 2 của công ty xuất nhập khẩu mà ở đó, các công ty bên thứ 2 này chỉ đảm nhận 1 khâu trong chuỗi Logistics. Nói nôm na, 2PL là việc kiểm soát các hoạt động truyền thống như vận tải, kho vận, thủ tục hải quan và thanh toán.

    III. 3PL: Cung cấp dịch vụ logistics bên thứ ba hay logistics theo hợp đồng

    Đây là một hình thức thay mặt cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu thực hiện các dịch vụ logistics trong từng khâu nhỏ trong chuỗi Logistics như: thay mặt cho người gửi hàng thực hiện thủ tục xuất nhập khẩu, cung cấp chứng từ giao nhận – vận tải và vận chuyển nội địa hay thay mặt cho người nhập khẩu làm thủ tục thông quan hàng hóa và đưa hàng đến nơi đã quy ước.

    • Sử dụng 3PL đồng nghĩa việc thuê các công ty bên ngoài để thực hiện các hoạt động logistics, có thể là toàn bộ quá trình quản lý logistics hoặc chỉ là một số hoạt động có chọn lọc.

    • Các chủ hàng sử dụng 3PL và nhà cung cấp dịch vụ logistics có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nhằm thực chia sẻ thông tin, rủi ro, và các lợi ích theo một hợp đồng dài hạn.

    IV. 4PL: Cung cấp dịch vụ logistics thứ tư hay logistics chuỗi phân phối, hay nhà cung cấp logistics chủ đạo – LPL.

    Đây là phần quản lý và thực hiện các hoạt động logistics phức tạp bao gồm quản lý nguồn lực, trung tâm điều phối kiểm soát. Bên cạnh đó, 3PL được bao gồm trong 4PL để thiết kế chiến lược, xây dựng và thực hiện chuỗi phân phối cho đơn vị khách hàng một cácnh linh hoạt mà không đơn giản chỉ liên quan đến chuỗi cung ứng.

    Trong 4PL, công ty hoặc tổ chức đại diện sẽ được ủy quyền của khách hàng với vai trò quản lý, tập chung cải tiến hiệu quả quy trình và thực hiện toàn bộ chuỗi cung ứng và Logistics. Do vậy, 4PL đang ngày càng trở thành một trong những vị trí chủ chốt trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

    4PL = 3PL + dv CNTT + quản lý các tiến trình kinh doanh.

    V. 5PL: Cung cấp dịch vụ logistics bên thứ năm.

    5PL là dịch vụ logistic phổ biến và phát triển nhất hiện nay dành cho Thương mại điện tử. 5PL quản lý và điều phối hoạt động của các 3PL, 4PL thông qua các giải pháp thông tin liên quan đến cung và cầu trên thị trường dịch vụ giao hàng thương mại điện tử. Điểm đặc trưng của 5 PL là các hệ thống (Hệ thống quản lý đơn hàng (OMS), Hệ thống quản lý kho hàng (WMS) và Hệ thống quản lý vận tải (TMS). Cả ba hệ thống này có liên quan chặt chẽ với nhau trong một hệ thống thống nhất và công nghệ thông tin.

    5PL là giải pháp dành cho các Shop, doanh nghiệp vừa và nhỏ, họ có thể tích hợp dễ dàng hệ thống quản lý/ ứng dụng của 5PL khi vận hành hệ thống chuyên nghiệp.

    Ví dụ về Logistics
    Các phương pháp tốt nhất về logistics khác nhau tùy thuộc vào bản chất của doanh nghiệp và các quyết định về sản phẩm của nó. Hãy xem xét các phương sai trong các ví dụ sau.

    Một nhà sản xuất dựa trên mô hình kinh doanh của mình dựa trên một hệ thống quản lý hàng tồn kho kịp thời giúp điều chỉnh việc nhận nguyên liệu với lịch trình sản xuất, do đó, ít cần phải trả cho việc lưu kho và vốn của công ty liên tục được giải phóng để tái đầu tư. Các ưu tiên về hậu cần của nó bao gồm lập kế hoạch nhu cầu, lựa chọn các nhà cung cấp luôn giao hàng đúng thời hạn và ngân sách, thu nhận nhanh nguyên vật liệu khi đến nơi và xử lý nguyên liệu hiệu quả. Khi hàng hóa cuối cùng được sản xuất, ưu tiên chuyển sang đóng gói thành phẩm và vận chuyển đến các nhà phân phối, bán buôn, bán lẻ hoặc các khách hàng khác. Các nhà sản xuất cần quản lý hậu cần từ đầu đến cuối thực sự từ mua hàng đến nhận hàng, sản xuất đến đóng gói, bảo quản và vận chuyển đến người mua.

    Nếu nhà sản xuất có mô hình trực tiếp đến người tiêu dùng, họ có thể sử dụng chuỗi cung ứng như một nhà cung cấp dịch vụ để đưa sản phẩm của mình đến tay khách hàng cuối cùng.

    Trong ví dụ thứ hai, một cửa hàng quần áo boutique đặt hàng từ các nhà thiết kế và nhà sản xuất. Hàng hóa thành phẩm đến kho phân phối chính của nhà bán lẻ để lấy hàng. Các mặt hàng đầu tiên được tách ra – được chia nhỏ từ bao bì thương mại số lượng lớn đến các gói hàng tiêu dùng cá nhân. Mã vạch được thêm vào, sau đó các mặt hàng được phân loại, đóng gói và chuyển đến cửa hàng hoặc nhà kho gần đó. Logistics cho nhà bán lẻ bắt đầu với việc tiêu thụ hàng hóa và tiếp tục thông qua việc vận chuyển những hàng hóa đó đến điểm đến cuối cùng của họ, trong trường hợp này là một cửa hàng truyền thống, không phải khách hàng cuối cùng.

    Trong kịch bản bán lẻ thứ hai, một số hoặc tất cả hàng hóa được gửi đến trung tâm thực hiện đơn hàng, nơi chúng được xử lý và chuyển đến khách hàng cuối cùng, những người có khả năng đã mua hàng trực tuyến. Trong trường hợp này, hậu cần đòi hỏi nhà bán lẻ nhận hàng hóa mà họ đã đặt từ nhà cung cấp, hợp nhất chúng và lưu trữ trong kho lưu trữ của trung tâm đáp ứng tại chỗ để được phân loại theo đơn đặt hàng của khách hàng và sau đó được vận chuyển bởi một công ty cung cấp hậu cần bên thứ ba, chẳng hạn như UPS, FedEx hoặc USPS.

    Trong tình huống thứ ba, nhà bán lẻ phân phối lại hàng tồn kho trong cửa hàng của mình cho các cửa hàng khác, nơi có nhu cầu về sản phẩm cao hơn để tránh giảm giá và thu lợi nhuận. Hoặc, nhà bán lẻ có thể biết từ phân tích của mình rằng nhu cầu ở mọi nơi đang giảm đối với một số sản phẩm nhất định. Trong trường hợp đó, càng nhanh chóng đánh dấu hàng giảm hoặc bán cho đại lý chiết khấu bán lẻ với giá giảm hàng loạt thì càng có nhiều khả năng thu hồi lại nhiều khoản đầu tư của mình. Logistics trong trường hợp này bao gồm việc kiểm soát hàng tồn kho, lập kế hoạch nhu cầu, kéo, đóng gói và vận chuyển sản phẩm giữa các cửa hàng, chuyển một số mặt hàng đến kệ bán hàng và vận chuyển phân phối số lượng lớn trong một giao dịch với người bán bên thứ ba.

    Nếu nhà bán lẻ tuyên bố rằng một số sản phẩm còn lại là quá đắt để bán, vì nhu cầu quá thấp ở bất kỳ mức giá nào, thì công tác hậu cần cũng sẽ bao gồm việc vận chuyển những mặt hàng này đến một tổ chức từ thiện để được xóa bỏ thuế. Nếu một số sản phẩm đó cũng bị hư hỏng, người quản lý hậu cần của nhà bán lẻ sẽ vận chuyển nó đến nơi xử lý.

    Tầm quan trọng của Logistics
    Logistics tập trung vào sự di chuyển của hàng hóa, nhưng ảnh hưởng của nó còn mở rộng hơn nữa. Trong kinh doanh, thành công trong lĩnh vực logistics có nghĩa là tăng hiệu quả, chi phí thấp hơn, tốc độ sản xuất cao hơn, kiểm soát hàng tồn kho tốt hơn, sử dụng không gian nhà kho thông minh hơn, tăng sự hài lòng của khách hàng và nhà cung cấp cũng như cải thiện trải nghiệm khách hàng.

    Mỗi yếu tố này đều có thể làm kim chỉ nam cho sự thành công của công ty một cách đáng kể. Lưu ý rằng dịch vụ logistics cũng mở rộng sang việc quản lý lợi nhuận để chiết xuất nhiều nhất doanh thu từ những hàng hóa này.

    Có bảy trụ cột của logistics hiệu quả:

    Tìm nguồn cung ứng nguyên vật liệu: Tìm nguồn cung ứng nguyên vật liệu không chỉ là việc tìm kiếm nhà cung cấp có chi phí thấp nhất cho nguyên liệu thô được sử dụng trong sản xuất. Logistics bao gồm tính toán và quản lý các yếu tố và chi phí đóng góp, chẳng hạn như sự chậm trễ của đơn hàng, xếp hạng ưu tiên của đối thủ cạnh tranh và khóa hàng, chi phí dịch vụ bổ sung, phí không liên quan, chi phí vận chuyển tăng do khoảng cách hoặc môi trường quy định và chi phí lưu kho. Việc tìm kiếm nguồn phù hợp cho bất kỳ tài liệu nhất định nào đòi hỏi sự hiểu biết và quản lý tốt tất cả các yếu tố góp phần. Quá trình này được gọi là tìm nguồn cung ứng chiến lược, và hậu cần đóng một vai trò quan trọng trong việc lập kế hoạch đó.
    Vận tải: Cốt lõi của logistics là hoạt động vận chuyển hàng hóa từ Điểm A đến Điểm B. Đầu tiên, một công ty cần chọn phương thức vận chuyển tốt nhất – ví dụ như đường hàng không hoặc đường bộ – và người vận chuyển tốt nhất dựa trên chi phí, tốc độ. và khoảng cách, bao gồm cả việc tối ưu hóa các tuyến đường yêu cầu nhiều nhà cung cấp dịch vụ. Trong trường hợp vận chuyển toàn cầu, người gửi hàng cần phải cập nhật nhanh chóng về hải quan, thuế quan, tuân thủ và bất kỳ quy định liên quan nào. Các nhà quản lý vận tải cần lập hồ sơ và theo dõi các lô hàng, quản lý việc lập hóa đơn và báo cáo về hiệu suất bằng cách sử dụng bảng điều khiển và phân tích.
    Thực hiện đơn hàng: Để hoàn thành một giao dịch, các mặt hàng phải được “chọn” từ kho theo đơn đặt hàng của khách hàng, đóng gói và dán nhãn đúng cách và sau đó vận chuyển cho khách hàng. Nói chung, các quy trình này bao gồm việc thực hiện đơn hàng và là trung tâm của chuỗi hậu cần trong việc phân phối khách hàng.
    Lưu kho: Cả lưu kho ngắn hạn và dài hạn đều là những phần phổ biến của kế hoạch hậu cần. Nhưng hệ thống quản lý kho cũng cho phép lập kế hoạch hậu cần. Ví dụ, các nhà lập kế hoạch hậu cần phải xem xét tính khả dụng của không gian nhà kho và các yêu cầu đặc biệt như kho lạnh, phương tiện cập cảng và sự gần gũi với các phương thức vận tải như đường sắt hoặc nhà máy đóng tàu.
    Hơn nữa, tổ chức bên trong các kho hàng là một phần của kế hoạch hậu cần. Thông thường, hàng hóa di chuyển thường xuyên hoặc có lịch vận chuyển sớm được đặt ở phía trước nhà kho. Các mặt hàng có nhu cầu thấp hơn được cất giữ ở phía sau. Hàng hóa dễ hư hỏng thường được luân chuyển vì vậy những mặt hàng cũ nhất được chuyển ra ngoài đầu tiên. Các mục thường được đóng gói thường được lưu trữ bên cạnh nhau, v.v.
    Dự báo nhu cầu: Logistics chủ yếu dựa vào dự báo nhu cầu hàng tồn kho để đảm bảo rằng một doanh nghiệp không bao giờ thiếu các sản phẩm hoặc nguyên vật liệu cốt lõi hoặc có nhu cầu cao — và cũng không bao giờ buộc phải tăng vốn không cần thiết vào hàng hóa nhập kho với doanh số bán hàng chậm chạp.
    Quản lý hàng tồn kho: Bằng cách sử dụng các kỹ thuật quản lý hàng tồn kho để lập kế hoạch trước cho nhu cầu gia tăng đối với các sản phẩm theo mùa hoặc theo xu hướng, các công ty có thể giữ lợi nhuận cao hơn và làm cho hàng tồn kho quay vòng nhanh hơn, nghĩa là tỷ lệ số lần bạn bán và thay thế hàng tồn kho trong một khoảng thời gian nhất định. Ngược lại, bằng cách lưu ý lượng hàng tồn kho chậm lại đối với các sản phẩm khác, một công ty có thể xác định tốt hơn khi nào nên đưa ra giá chiết khấu hoặc các biện pháp khuyến khích khác để giải phóng vốn nhằm tái đầu tư vào hàng hóa có nhu cầu cao hơn.
    Hơn nữa, doanh số bán lẻ thường khác nhau giữa các cửa hàng, khu vực này với khu vực khác và quốc gia này với quốc gia khác. Quản lý hàng tồn kho tốt cho phép doanh nghiệp quyết định vận chuyển các sản phẩm đang hoạt động kém ở cửa hàng hoặc khu vực này sang cửa hàng hoặc khu vực khác thay vì chịu lỗ thông qua việc định giá chiết khấu để loại bỏ hàng tồn kho. Logistics là chìa khóa để di chuyển hàng tồn kho đến nơi có khả năng có được giá tốt nhất.
    Quản lý chuỗi cung ứng: Logistics là một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng vì nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển hàng hóa từ nhà cung cấp đến nhà sản xuất, sau đó đến người bán hoặc nhà phân phối và cuối cùng là đến người mua.
    Chuỗi cung ứng về cơ bản là một chuỗi các giao dịch. Nếu hậu cần không thành công, chuỗi cung ứng không thành công và các giao dịch bị đình trệ. Một ví dụ điển hình: kệ để trống trong các lối đi bán sữa của cửa hàng tạp hóa ngay cả khi nông dân đổ bỏ sữa khi chuỗi cung ứng bị phá vỡ trong đại dịch.

    Các kiến thức kỹ năng cần có khi làm logistics
    Để có thể làm tốt công việc logistics, có kiến thức thôi chưa đủ, bạn cần có cho mình những kỹ năng quan trọng như:

    Khả năng nhìn thấu bức tranh toàn cảnh quy trình logistics để có thể lường trước được những rủi ro, phát sinh có thể xảy ra trong quá trình hoạt động. Đồng thời, bạn cũng cần xây dựng được kế hoạch dự phòng nếu cần thiết.

    Khả năng thích ứng và linh hoạt, đặc biệt là trong thay đổi chuỗi cung ứng. Nhất là trong thời kỳ hiện nay, logistics ngày càng phát triển.

    Bình tĩnh dưới áp lực là phẩm chất cực kỳ quan trọng để bạn có thể hòa nhập được với công việc, thực hiện đúng các hoạt động, tránh rủi ro,, sai lệch gây hỏng “mắt xích” logistics nào đó.

    Kỹ năng giải quyết vấn đề là điều cần thiết giúp bạn thành công trong lĩnh vực này.

    Trung thực trao đổi với khách hàng mỗi khi có vấn đề về vận chuyển để 2 bên cùng san sẻ, giải quyết mới là hướng đi đúng đắn giúp tạo niềm tin của khách hàng, củng cố mối quan hệ công ty bạn với đối tác.

    Ngoài ra, bạn cũng cần liên tục cải thiện các hiệu quả công việc, hiểu về quản lý, khả năng giải tỏa căng thẳng, giảm áp lực,… Tất cả những điều này sẽ giúp bạn nhanh chóng đạt được thành công trong lĩnh vực logistics này.

    Khái niệm logistics logistics chuỗi cung ứng supply chain

  • Hậu cần theo Wikipedia
    Logistics QTL Logistics QT

    Hậu cần (tiếng Anh: logistics) là hoạt động chuyên chở, lưu giữ và cung cấp hàng hóa[1]. Theo cách gọi không mang nặng tính quân sự, hoạt động này có thể được miêu tả là trữ vận hàng hóa, có thể dùng các từ mượn tiếng Trung như là vật lưu hay hóa vận.

    Trong sản xuất kinh doanh, đây là nghệ thuật và khoa học của quản lý và điều chỉnh luồng di chuyển của hàng hóa, năng lượng, thông tin và những nguồn lực khác như sản phẩm, dịch vụ và con người, từ nguồn lực của sản xuất cho đến thị trường.

    Việc tiếp thị hay sản xuất thường cần sự hỗ trợ của hậu cần. Nó thể hiện sự hợp nhất của thông tin liên lạc, vận tải, tồn kho, lưu kho, giao nhận nguyên vật liệu, bao bì đóng gói. Trách nhiệm vận hành của hoạt động hậu cần là việc tái định vị (theo mục tiêu địa lý) của nguyên vật liệu thô, của công việc trong toàn quá trình, và tồn kho theo yêu cầu chi phí tối thiểu có thể. Và di chuyển thành phần đến nơi tiêu thụ sau quá trình sản xuất.

    Lịch sử
    Hậu cần có khái niệm bắt nguồn từ nhu cầu quân sự trong việc cung cấp cho chính họ trong quá trình di chuyển của các đoàn quân từ căn cứ ra tiền tuyến.

    Trong các cuộc chiến tranh cổ đại của đế chế Hy Lạp và La Mã, những chiến binh có chức danh "Logistikas" được giao nhiệm vụ chu cấp và phân phối vũ khí và nhu yếu phẩm, đảm bảo điều kiện cho quân sĩ hành quân an toàn từ bản doanh đến một vị trí khác. Công việc hậu cần này có ý nghĩa sống còn tới cục diện của chiến tranh, khi các bên tìm mọi cách bảo vệ nguồn cung ứng của mình và tìm cách triệt phá nguồn cung ứng của đối phương. Quá trình tác nghiệp đó dần hình thành một hệ thống mà sau này được vận dụng trong các phương pháp quản lý hậu cần.

    Những tướng quân làm về quân nhu như trong thời Tam Quốc (220-280) cũng thực hiện vai trò tương tự với logistikas.

    Thuật ngữ logistics trong tiếng Anh bắt nguồn từ chữ Hy Lạp logistikos. Theo định nghĩa của Oxford thì logistics trong tiếng Anh được hiểu là một nhánh của khoa học quân sự liên quan đến việc tiến hành, duy trì và vận chuyển phương tiện thiết bị và nhân sự.

    Khái niệm hậu cần/logistics liên quan đến kinh doanh bắt nguồn từ những năm 1950. Điều này chủ yếu là do sự gia tăng trong việc cung cấp, vận chuyển trong một thế giới toàn cầu hóa đòi hỏi phải có những nhà chuyên gia trong lĩnh vực này.

    Khái niệm
    Hậu cần là môn khoa học nghiên cứu tính quy luật của các hoạt động cung ứng và đảm bảo các yếu tố tổ chức, vật chất và kỹ thuật, để cho quá trình chính yếu được tiến hành đúng mục tiêu. Nó được coi như một nhánh của quá trình tạo ra một hệ thống liên quan đến nguồn lực con người hơn là một hệ thống về máy móc. Điều này chỉ rõ nguồn lực tập trung là con người với vai trò vừa là đối tượng, vừa là công cụ tác động, vừa là chủ thể của quá trình.

    Hậu cần có thể được hiểu như là việc có được đúng số lượng cần thiết ở đúng thời điểm và với chi phí phù hợp. Nó là nghệ thuật, là một quá trình khoa học. Nó phối hợp tất cả các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, quản lý vòng đời dự án, chuỗi cung cấp và hiệu quả.

    Trong kinh doanh
    Trong kinh doanh, hậu cần có thể hiểu như việc tập trung cả nội lực lẫn ngoại lực bao hàm cả quá trình chu chuyển từ nhà "sản xuất gốc" đến "người tiêu dùng cuối cùng". Chức năng chính của hậu cần bao gồm việc quản lý việc mua bán, vận chuyển, lưu kho cùng với các hoạt động về tổ chức cũng như lập kế hoạch cho các hoạt động đó. Người quản lý hậu cần kết hợp kiến thức tổng hợp của mỗi chức năng từ đó phối hợp các nguồn lực trong tổ chức để vận hành. Có hai khác biệt cơ bản của hậu cần. Một thì đánh giá một cách lạc quan, đơn giản coi đó như là sự chu chuyển ổn định của nguyên liệu trong mạng lưới vận chuyển và lưu trữ. Một thì coi đó là một sự kết hợp các nguồn lực (nhân lực, vật lực...) để tiến hành quá trình.

    Trong quá trình sản xuất
    Thuật ngữ này ám chỉ quá trình hậu cần trong các ngành công nghiệp. Mục đích của nó là đảm bảo mỗi một máy móc thiết bị hay trạm làm việc được "nạp" đủ sản phẩm với đúng số lượng, chất lượng và đúng lúc. (JIT)

    Hậu cần đầu vào (Inbound Logistics)
    Quản lý dòng vật tư kỹ thuật, nguyên vật liệu sản xuất và các bộ phận cấu thành nên sản phẩm từ các nhà cung cấp khác nhau và qua nhiều công đoạn khác nhau. Chúng được di chuyển từ nơi cung cấp đến doanh nghiệp sản xuất dưới dạng thô hay sơ chế. Nhà sản xuất cần phải kiểm soát dòng dịch chuyển này, không chỉ đảm bảo cung cấp đầy đủ các yếu tố nhập lượng hữu hình cho quá trình sản xuất được tiến hành trôi chảy mà còn phải đảm bảo sử dụng vốn ít nhất và chi phí thấp nhất để tạo ra các xuất lượng (thành phẩm) với giá thành rẻ nhằm đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu khách hàng.

    Ví dụ 1: Vận chuyển cà phê thô đến nhà máy đến thực hiện chế biến, rang xoay,..tạo nên cà phê thành phẩm trong nhà máy. Tuỳ thuộc vào thời gian sản xuất, nguyên vật liệu cà phê thô có thể được lưu trữ, bảo quản tại kho.

    Ví dụ 2: Đưa các bộ phận của máy bay Airbus từ các nước châu Âu để lắp ráp tại nhà máy. Sao cho các bộ phận được đáp ứng theo nhu cầu: đúng thời gian, đúng số lượng và đảm chất lượng với chi phí tối ưu.

    Đây là các trường hợp thực tế thường gặp của hậu cần đầu vào.

    Hậu cần đầu ra (Outbound Logistics)
    Dòng hậu cần đầu ra liên quan đến việc dịch chuyển hàng hóa từ điểm cuối cùng của dây chuyền sản xuất đến khách hàng. Sự chu chuyển của hàng hóa thông qua các kênh phân phối (trực tiếp hoặc gián tiếp) đến tay người tiêu dùng. Đặc biệt tại hậu cần đầu ra, xuất hiện các dịch vụ làm tăng giá trị sản phẩm (dịch vụ giá trị gia tăng VAS).

    Cụ thể đó là các hoạt động: đóng gói, in dán nhãn mác, phân loại, kiểm kê,.. tại các nơi lưu trữ sản phẩm đã hoàn thành. Thông thường các hoạt động VAS được tổ chức tại kho hàng, trung tâm phân phối, cảng biển,.. (Nơi gần thị trường tiêu thụ hoặc cửa ngõ xuất khẩu).

    Kết luận: Vấn đề như vậy không phải là chỉ liên quan đến việc vận chuyển, mà còn là phân luồng và điều chỉnh các kênh xuyên suốt quá trình gia tăng giá trị và xoá bỏ những giá trị không gia tăng. Hậu cần trong quá trình sản xuất được áp dụng cho cả những nhà máy đang tồn tại hoặc mới được thành lập. Sản xuất chế tạo là một nhà máy với quá trình thay đổi ổn định (có thể hiểu là một nhà máy thì luôn phải hoạt động nhưng với một công suất ổn định). Máy móc được thay đổi và thay mới. Theo đó sẽ là cơ hội cải thiện hệ thống hậu cần trong sản xuất. Ngược lại, hậu cần sẽ cung cấp các "phương tiện" cho việc đạt được hiệu quả mong muốn của khách hàng và hiệu quả sử dụng vốn.

    Khái niệm logistics hậu cần logistics inbound outbound

  • Logistics là gì? các quy định của Pháp luật về logistics
    Logistics QTL Logistics QT

    1. Logistics là gì?

    Theo quy định tại Điều 233 Luật thương mại 2005 thì Logistics là dịch vụ hoạt động trong lĩnh vực thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hoá theo thoả thuận với khách hàng để hưởng thù lao.

    Những lợi ích và ý nghĩa của dịch vụ logistics mang lại

    (1) Tiết kiệm chi phí: Logistics giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí vận chuyển, lưu kho, lưu thông hàng hóa thông qua việc tối ưu hóa quy trình.

    (2) Tăng hiệu quả hoạt động: Áp dụng logistics giúp nâng cao hiệu quả sản xuất, lưu thông, phân phối sản phẩm, rút ngắn chu kỳ sản xuất.

    (3) Nâng cao chất lượng dịch vụ: Logistics đảm bảo chất lượng dịch vụ cao hơn thông qua việc đồng bộ các khâu vận chuyển, lưu kho, xử lý đơn hàng.

    (4) Tăng cường khả năng cạnh tranh: Logistics hiệu quả giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh bằng chi phí thấp, chất lượng dịch vụ tốt.

    (5) Hỗ trợ hoạt động thương mại điện tử: Logistics là nền tảng quan trọng cho sự phát triển của thương mại điện tử.

    (6) Tạo việc làm và phát triển ngành: Logistics thúc đẩy phát triển ngành vận tải, kho bãi, tạo nhiều việc làm cho lao động.

    (7) Hỗ trợ các hoạt động xuất nhập khẩu.

    Như vậy, dịch vụ logistics mang lại nhiều lợi ích về chi phí, năng suất, chất lượng, cạnh tranh và phát triển kinh tế cho các doanh nghiệp và xã hội.

    2. Có bao nhiêu loại hình logistics hiện nay?

    Hiện nay, theo quy định tại Điều 3 Nghị định 163/2017/NĐ-CP có các loại hình dịch vụ logistics sau đây:

    (1) Dịch vụ xếp dỡ container, trừ dịch vụ cung cấp tại các sân bay.

    (2) Dịch vụ kho bãi container thuộc dịch vụ hỗ trợ vận tải biển.

    (3) Dịch vụ kho bãi thuộc dịch vụ hỗ trợ mọi phương thức vận tải.

    (4) Dịch vụ chuyển phát.

    (5) Dịch vụ đại lý vận tải hàng hóa.

    (6) Dịch vụ đại lý làm thủ tục hải quan (bao gồm cả dịch vụ thông quan).

    (7) Dịch vụ khác, bao gồm các hoạt động sau: Kiểm tra vận đơn, dịch vụ môi giới vận tải hàng hóa, kiểm định hàng hóa, dịch vụ lấy mẫu và xác định trọng lượng; dịch vụ nhận và chấp nhận hàng; dịch vụ chuẩn bị chứng từ vận tải.

    (8) Dịch vụ hỗ trợ bán buôn, hỗ trợ bán lẻ bao gồm cả hoạt động quản lý hàng lưu kho, thu gom, tập hợp, phân loại hàng hóa và giao hàng.

    (9) Dịch vụ vận tải hàng hóa thuộc dịch vụ vận tải biển.

    (10) Dịch vụ vận tải hàng hóa thuộc dịch vụ vận tải đường thủy nội địa.

    (11) Dịch vụ vận tải hàng hóa thuộc dịch vụ vận tải đường sắt.

    (12) Dịch vụ vận tải hàng hóa thuộc dịch vụ vận tải đường bộ.

    (13) Dịch vụ vận tải hàng không.

    (14) Dịch vụ vận tải đa phương thức.

    (15) Dịch vụ phân tích và kiểm định kỹ thuật.

    (16) Các dịch vụ hỗ trợ vận tải khác.

    (17) Các dịch vụ khác do thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics và khách hàng thỏa thuận phù hợp với nguyên tắc cơ bản của Luật thương mại 2005.

    Theo đó, trong các loại hình dịch vụ logistics phổ biến nêu trên thì có một số loại hình được sử dụng nhiều nhất hiện nay như:

    • Dịch vụ vận tải hàng hóa đường bộ: Do Việt Nam có hệ thống đường bộ phát triển, đường bộ vẫn là phương thức vận tải phổ biến và chiếm tỷ trọng lớn trong vận tải hàng hóa nội địa.

    • Dịch vụ đại lý vận tải/môi giới vận tải: Với sự phát triển của thương mại điện tử, các dịch vụ đại lý/môi giới vận tải ngày càng quan trọng để kết nối người gửi với các đơn vị vận tải.

    • Dịch vụ kho bãi/logistics: Trong bối cảnh thương mại phát triển, việc quản lý, lưu kho và phân phối hàng hóa trở nên quan trọng, thúc đẩy nhu cầu các dịch vụ logistics tăng lên.

    • Dịch vụ chuyển phát nhanh: Với sự gia tăng của thương mại điện tử, dịch vụ chuyển phát nhanh cũng trở nên phổ biến để phục vụ nhu cầu giao nhận hàng hóa.

    Như vậy có thể thấy các dịch vụ logistics như vận tải, kho bãi và chuyển phát nhanh là những dịch vụ được sử dụng nhiều nhất hiện nay. Tuy nhiên, tỷ trọng cụ thể còn phụ thuộc vào đặc điểm thị trường tại từng khu vực địa lý nước ta.

    3. Kinh doanh dịch vụ logistics cần những điều kiện gì?

    Theo hướng dẫn tại Điều 4 Nghị định 163/2017/NĐ-CP quy định thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics cần những điều kiện sau:

    “1. Thương nhân kinh doanh các dịch vụ cụ thể thuộc dịch vụ logistics quy định tại Điều 3 Nghị định này phải đáp ứng các điều kiện đầu tư, kinh doanh theo quy định của pháp luật đối với dịch vụ đó.

    1. Thương nhân tiến hành một phần hoặc toàn bộ hoạt động kinh doanh logistics bằng phương tiện điện tử có kết nối mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác, ngoài việc phải đáp ứng theo quy định của pháp luật đối với các dịch vụ cụ thể quy định tại Điều 3 Nghị định này, còn phải tuân thủ các quy định về thương mại điện tử.

    2. Điều kiện đối với nhà đầu tư nước ngoài kinh doanh dịch vụ logistics:

    Ngoài việc đáp ứng các điều kiện, quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này, nhà đầu tư nước ngoài thuộc nước, vùng lãnh thổ là thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới được cung cấp dịch vụ logistics theo các điều kiện sau:

    a) Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải hàng hóa thuộc dịch vụ vận tải biển (trừ vận tải nội địa):

    • Được thành lập các công ty vận hành đội tàu treo cờ Việt Nam hoặc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp trong doanh nghiệp, trong đó tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49%. Tổng số thuyền viên nước ngoài làm việc trên các tàu treo cờ quốc tịch Việt Nam (hoặc được đăng ký ở Việt Nam) thuộc sở hữu của các công ty này tại Việt Nam không quá 1/3 định biên của tàu. Thuyền trưởng hoặc thuyền phó thứ nhất phải là công dân Việt Nam...”

    Theo đó, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics cần những điều kiện sau:

    • Đáp ứng các điều kiện đầu tư, kinh doanh theo quy định của từng loại hình dịch vụ cụ thể quy định tại Điều 3 Nghị định 163/2017/NĐ-CP;

    • Kinh doanh bằng phương tiện điện tử cần tuân thủ quy định về thương mại điện tử quy định tại Điều 3 Nghị định 163/2017/NĐ-CP.

    Điều kiện đối với nhà đầu tư nước ngoài kinh doanh dịch vụ logistics

    • Nhà đầu tư nước ngoài cần đáp ứng các quy định về tỷ lệ sở hữu(tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài cao nhất không quá 51%), hình thức đầu tư(góp vốn, mua cổ phần, hợp tác kinh doanh...), số lượng lao động nước ngoài,... tùy theo từng loại hình dịch vụ cụ thể.

    • Nhà đầu tư nước ngoài có thể áp dụng theo điều kiện đầu tư quy định tại một trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia nếu có sự khác biệt về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics.

    • Đáp ứng các điều kiện về an ninh, quốc phòng nếu hoạt động tại một số khu vực nhất định.

    Như vậy, tùy theo từng loại hình dịch vụ cụ thể mà các điều kiện đầu tư, kinh doanh dịch vụ logistics sẽ có những quy định riêng. Tuy nhiên, đều phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật.

    Khái niệm logistics logistics chuỗi cung ứng

  • Bàn giải pháp thu hút 140.000 nhân lực chất lượng cao cho ngành đường sắt
    Logistics QTL Logistics QT

    Nhân lực này có truyền thống nhưng chưa hiện đại ..
    Cũng lo lo nhỉ?

    Đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa

  • Cơ hội lớn cho Đồng Nai: Long Thành sẽ có trung tâm logistics hàng không?
    Logistics QTL Logistics QT

    Cũng nên như vậy
    hạ tầng tốt cần được đầu tư tốt cho các hub về logistics.
    thậm chí còn là trung tâm logistics lớn nhất
    Làm trung tâm trung chuyển hàng không quốc tế cho các loại hàng hoá chuyển phát nhanh trong khu vực ...

    Tin tức logistics và Chuỗi cung ứng

  • Cơ hội làm trung tâm hàng hải quốc tế tại cảng Cái Mép 10 tỉ USD
    Logistics QTL Logistics QT

    Cần nhiều các ý kiến đóng góp và doanh nghiệp mạnh, thực lực để có thể biến tiềm năng thành sự thật
    Để TP HCM làm khu vực trung chuyển của cả vùng quốc tế...

    Hàng hải ( Hãng tàu, cảng biển, vận chuyển đường biển )

  • Logistics Việt Nam hút các “ông lớn” vận tải, đầu tư quốc tế
    Logistics QTL Logistics QT

    Phải có sự liên kết với nước ngoài, mới tạo được chuỗi dịch vụ, nâng cao sức mạnh cạnh tranh và nhận diện thương hiệu ra quốc tế ...
    Có lẽ nước mình thị trường đang dần chật chội...
    Các cty lớn cần các phương hướng mới ...

    Hàng không, chuyển phát nhanh, thương mại điện tử, kho hàng

  • Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong ngành logistics Việt Nam
    Logistics QTL Logistics QT

    Nhân lực là bài ca muôn thuở,
    Giờ còn dùng AI, các công nghệ mới được phát triển,
    một số vị trí mất dần , nhưng bù lại, quản trị thông minh và vận hành thông minh lên ngôi..
    Nhân lực giờ là cao hẳn hoặc đơn thuẩn cho các tác vụ giản đơn ...

    Tin tức logistics và Chuỗi cung ứng

  • Tăng liên kết, giảm chi phí logistics
    Logistics QTL Logistics QT

    Có những ai muốn liên kết.
    Nhiều khi vì không muốn liên kết nên không hình thành được một liên minh và một Corp vững mạnh..
    Nên M&A rất hiếm, trừ khi bị đổ vỡ chứ không muốn liên kết hoặc bán mình...
    Nước ngoài họ tư duy rõ ràng..
    nên cần phải biết cân nhắc thời điểm..
    Thời điểm cho các doanh nghiệp nhỏ trong logistics cần những lối đi khác , và cần những doanh nghiệp lớn, đầu đàn ...

    Tin tức logistics và Chuỗi cung ứng
  • Login

  • Don't have an account? Register

Powered by NodeBB Contributors
  • First post
    Last post
0
  • Categories
  • Recent
  • Tags
  • Popular
  • Users
  • Groups