Skip to content
  • Categories
  • Recent
  • Tags
  • Popular
  • Users
  • Groups
Skins
  • Light
  • Cerulean
  • Cosmo
  • Flatly
  • Journal
  • Litera
  • Lumen
  • Lux
  • Materia
  • Minty
  • Morph
  • Pulse
  • Sandstone
  • Simplex
  • Sketchy
  • Spacelab
  • United
  • Yeti
  • Zephyr
  • Dark
  • Cyborg
  • Darkly
  • Quartz
  • Slate
  • Solar
  • Superhero
  • Vapor

  • Default (No Skin)
  • No Skin
Collapse

DDVT

D

DNTH

@DNTH
About
Posts
4
Topics
4
Shares
0
Groups
0
Followers
0
Following
0

Posts

Recent Best Controversial

  • Bản đồ stablecoin: Khu vực nào đang sử dụng USDT nhiều nhất?
    D DNTH

    🔵 Bắc Mỹ chiếm áp đảo với 41.5% tổng giao dịch (6.3M)

    🔵 Châu Âu bám sát với 33.9% (5.2M)

    🟡 Châu Á và Đông Nam Á lần lượt là 11.9% và 8.9%

    🔴 Châu Phi, Châu Đại Dương và Mỹ Latinh khiêm tốn với 3%

    🧠 Điều thú vị: Kể từ giai đoạn giữa năm 2024 đổ đi, châu Âu và Đông Nam Á tăng tốc mạnh. Trong khi đó, châu Á sụt giảm mạnh từ 33% xuống chỉ còn 12%. Bất chấp những thay đổi theo khu vực, stablecoin neo theo giá USD vẫn phổ biến nhất.

    💡 Stablecoin không chỉ là công cụ chống biến động thị trường, mà còn trở thành cầu nối tài chính xuyên biên giới – đặc biệt ở các khu vực mới nổi.

    Bạn đang dùng stablecoin vào mục đích gì?

    👇 Comment chia sẻ nhé!

    Công nghệ, AI, Blockchain, Machine Learning

  • Tăng trưởng tín dụng đến 18/6 ước đạt 7,14%
    D DNTH

    Theo ông Nguyễn Phi Lân, Vụ trưởng Vụ Dự báo, thống kê - Ổn định tiền tệ, tài chính Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tính đến ngày 18/6/2025, dư nợ tín dụng toàn hệ thống đạt 16,73 triệu tỷ đồng, tăng 7,14% so với cuối 2024.

    Tài chính logistics

  • Siết kiểm soát chất lượng để giữ thị trường Trung Quốc
    D DNTH

    Để xuất khẩu bền vững các mặt hàng rau quả sang Trung Quốc, cần xây dựng chuỗi liên kết sản xuất thực chất từ vùng trồng, cơ sở đóng gói đến doanh nghiệp (DN) xuất khẩu, đảm bảo tiêu chuẩn kiểm dịch thực vật và an toàn thực phẩm.
    dnth.png
    Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu rau quả số 1 của Việt Nam

    Thông tin từ Hiệp hội Rau quả Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu rau quả trong tháng 5/2025 ước đạt 496 triệu USD. Lũy kế 5 tháng năm 2025, xuất khẩu rau quả ước đạt 2,1 tỷ USD, giảm 17,8% so với cùng kỳ năm 2024.
    Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn nhất của nông sản Việt Nam nói chung và rau quả Việt Nam. Năm 2024, quốc gia này đã chi 4,6 tỷ USD để nhập khẩu rau, quả Việt Nam. Những tháng đầu năm 2025, ngành rau quả Việt đối mặt với nhiều khó khăn, kim ngạch xuất khẩu sụt giảm mạnh, chủ yếu do xuất khẩu sầu riêng gặp khó tại thị trường Trung Quốc. Nguyên nhân chính là nước bạn tăng cường kiểm soát chất lượng sầu riêng nhập khẩu. Các tiêu chuẩn về kiểm dịch, dư lượng chất cadmium, vàng O và truy xuất nguồn gốc được siết chặt đã khiến nhiều lô hàng không đạt chuẩn bị trả về, gây ra sự đứt gãy trong chuỗi tiêu thụ.

    Với tình hình hiện tại, Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam Đặng Phúc Nguyên dự báo, xuất khẩu rau quả năm 2025 khó đạt mục tiêu 7 tỷ USD như kỳ vọng. Gần đây, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã ký 3 nghị định thư với Trung Quốc, trong đó có 2 mặt hàng rau quả là ớt và chanh leo. Tuy nhiên, 2 mặt hàng này khó tạo đột phá lớn do Trung Quốc đã tự trồng được với sản lượng lớn.

    Trước đây, khi Trung Quốc chưa trồng được thanh long, Việt Nam từng xuất khẩu mặt hàng này đạt hơn 1 tỷ USD/năm. Nhưng khi nước bạn phát triển sản xuất nội địa, kim ngạch xuất khẩu thanh long giảm còn 400 - 500 triệu USD/năm. Tương tự, ớt và chanh leo của Việt Nam sẽ phải cạnh tranh gay gắt với hàng nội địa Trung Quốc và các nước xuất khẩu khác như Ấn Độ.

    “Dự báo kim ngạch xuất khẩu ớt và chanh leo sang Trung Quốc chỉ có thể tăng gấp đôi so với năm 2024, tức mỗi mặt hàng tăng thêm 100 - 200 triệu USD/năm. Dù đóng góp vào tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả, 2 mặt hàng này khó bù đắp được sự sụt giảm mạnh của sầu riêng. Các mặt hàng khác như chuối, dù có tăng trưởng, cũng chỉ đóng góp thêm khoảng 100 - 200 triệu USD.” – ông Đặng Phúc Nguyên phân tích.

    Chuẩn hóa sản xuất để giữ thị trường Trung Quốc

    Nhiều chuyên gia, DN nhận định, Trung Quốc vẫn là thị trường lớn nhất của sầu riêng Việt Nam. Nếu làm tốt khâu chế biến thay vì chỉ dựa vào xuất khẩu quả tươi, mục tiêu hơn 3 tỷ USD hoàn toàn có thể đạt được, thậm chí lên đến con số 5 tỷ USD.
    Giám đốc Công ty TNHH Huy Long An Võ Quan Huy cho biết, thị trường sầu riêng toàn cầu năm 2025 có giá trị khoảng 200 tỷ USD và có thể đạt 400 tỷ USD vào năm 2035, với tốc độ tăng trưởng trung bình hơn 7% mỗi năm. Trong bối cảnh nhu cầu tiêu dùng tăng cao, việc đảm bảo nguồn cung ổn định quanh năm là một lợi thế quan trọng của Việt Nam.

    Theo Phó Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) Lê Thanh Hoà với 1,4 tỷ dân, Trung Quốc là thị trường có sức mua hấp dẫn nhất thế giới. Việt Nam có lợi thế lớn về địa lý khi sở hữu hơn 1.450 km đường biên giới với Trung Quốc. Bên cạnh đó, Trung Quốc có nhiều chợ đầu mối lớn nằm sát biên giới phía Bắc, cách các vùng trồng nông sản của Việt Nam vài trăm km. Nhờ đó, chi phí logistics thấp, thời gian vận chuyển nhanh và cạnh tranh hơn so với các quốc gia khác.

    Một lợi thế nữa là xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc tăng mạnh nhờ các Hiệp định thương mại tự do (FTA) như Hiệp định ASEAN - Trung Quốc, Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) và các Nghị định thư ký giữa hai nước. Do đó, dư địa cho các DN kinh doanh, xuất khẩu trái cây khai thác thị trường này còn rất lớn.

    Tuy nhiên, Trung Quốc từ lâu đã không còn là thị trường dễ tính khi các rào cản kỹ thuật ngày càng khắt khe, do đó, việc chủ động thích ứng từ vùng trồng đến chế biến, logistics và thị trường là điều kiện "sống còn" để nông sản Việt vững bước trên sân chơi toàn cầu.

    Nhấn mạnh sự quan trọng của yếu tố minh bạch thông tin và truy xuất nguồn gốc, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy cho hay, hiện Bộ đang hoàn thiện Thông tư về quản lý mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói. Đây sẽ là văn bản nền tảng điều chỉnh toàn bộ quá trình sản xuất, sơ chế, kiểm soát kỹ thuật.

    Thông tư này sẽ quy định điều kiện cấp, duy trì, tạm dừng hoặc thu hồi mã số; trách nhiệm của các cơ quan địa phương, đơn vị giám sát và DN; chuẩn hóa quy trình sản xuất, sơ chế, bảo quản phù hợp với yêu cầu thị trường Trung Quốc và các nước có tiêu chuẩn cao.

    Ngoài ra, Bộ cũng đang xây dựng các quy trình thực hành nông nghiệp và kỹ thuật sơ chế an toàn, hướng dẫn sử dụng vật tư nông nghiệp giảm thiểu chứa kim loại nặng, yêu cầu không sử dụng hóa chất cấm, đồng thời hỗ trợ áp dụng nhật ký điện tử và hệ thống truy xuất số hóa.

    Kinh tế vĩ mô, chính sách, pháp luật dnth xuât khẩu trung

  • Việc hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng đã và đang mở ra nhiều cơ hội phát triển cho ngành dịch vụ logistics Việt Nam.
    D DNTH

    Việc hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng đã và đang mở ra nhiều cơ hội phát triển cho ngành dịch vụ logistics Việt Nam. Tuy nhiên, để không bị "lỡ tàu", Việt Nam cần thực sự nỗ lực giải quyết được những bất cập, khó khăn nổi cộm "vắt" từ năm này qua năm khác.

    Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB) về Chỉ số hoạt động Logistics (LPI) công bố tháng 7/2018 cho thấy: Việt Nam đứng thứ 39/160 nước tham gia nghiên cứu, tăng 25 bậc so với năm 2016 và vươn lên đứng thứ 3 trong các nước ASEAN. Việt Nam cũng là nước có xếp hạng ở top đầu trong các thị trường mới nổi. Đây là kết quả tốt nhất mà Việt Nam có được kể từ khi WB thực hiện việc xếp hạng LPI trong thập niên vừa qua.

    Theo Bộ Công Thương: Hiện nay, cả nước có khoảng 3.000 doanh nghiệp (DN) dịch vụ logistics, hoạt động trong các lĩnh vực từ vận tải đường bộ, đường sắt, đường biển, đường thủy nội địa, đường hàng không cho đến giao nhận, kho bãi, đại lý hải quan, giám định, kiểm nghiệm hàng hóa, bốc dỡ hàng hóa,... Bên cạnh đó, các DN còn đảm nhận một phần dịch vụ logistics quốc tế qua việc làm đại lý cho các DN nước ngoài là các chủ hàng, chủ tàu, các nhà cung cấp dịch vụ logistics quốc tế.

    Thứ trưởng Bộ Công Thương Cao Quốc Hưng đánh giá: Dù ngành logistics của Việt Nam đã đạt được những bước phát triển nhanh, song các DN logistics Việt Nam chủ yếu ở quy mô nhỏ với khoảng 90% DN khi đăng ký có vốn dưới 10 tỷ đồng; 5% có mức vốn từ 10 đến 20 tỷ đồng; còn lại 5% có mức vốn từ 20 tỷ đồng trở lên. Trong khi đó, số DN logistics tham gia Hiệp hội DN dịch vụ Logistics chỉ có trên 360 DN. Điều này cho thấy, tính liên kết của DN Logistic Việt Nam còn thấp, đa số vẫn hoạt động đơn lẻ.

    Về những bất cập, thách thức trong phát triển dịch vụ logistics tại Việt Nam, Thứ trưởng Cao Quốc Hưng thông tin thêm: Hạ tầng phục vụ ngành dịch vụ logistics của Việt Nam là vấn đề lớn điển hình. Cụ thể, do chưa nhận thức về việc phát triển ngành logistics thành một ngành dịch vụ cơ bản để hỗ trợ cho các ngành kinh tế khác, một số tỉnh, thành phố có tiềm năng nhưng cơ sở hạ tầng thương mại, hạ tầng giao thông cũng như hạ tầng về công nghệ thông tin chưa được đầu tư tương xứng. Điều này gây không ít khó khăn trong việc đẩy mạnh hợp tác kết nối giữa các DN kinh doanh dịch vụ logistics trong và ngoài nước tại Việt Nam.

    "Điểm yếu của các DN Việt Nam là chi phí dịch vụ còn cao; chất lượng một số dịch vụ và tính chuyên nghiệp chưa đồng đều. Điều này xuất phát từ hạn chế về quy mô, vốn, về kinh nghiệm và trình độ quản lý, khả năng áp dụng công nghệ thông tin, trình độ nguồn nhân lực... của DN", Thứ trưởng Cao Quốc Hưng nhấn mạnh.

    Đẩy mạnh cải cách hành chính

    Việt Nam đã và đang trở thành một trung tâm sản xuất nhiều mặt hàng, sản phẩm trong "top" đầu thế giới. Đáng chú ý, tại Việt Nam hiện nay có sự góp mặt, hoạt động hiệu quả của không ít tập đoàn hàng đầu thế giới, nhất là trong lĩnh vực điện tử, công nghệ thông tin như: Samsung, Fujitsu, Intel, Samsung, Nokia, Siemens, LG,...

    Bên cạnh đó, điểm nổi bật là Việt Nam đã và đang ngày càng hội nhập kinh tế sâu rộng vào nền kinh tế thế giới với việc ký kết, thực nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA). Gần đây nhất, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương đã được Quốc hội phê chuẩn. Có thể nói, đó là những cơ sở quan trọng để Việt Nam mở ra cơ hội phát triển cho ngành logistics, nhất là tạo môi trường thuận lợi cho các DN nước ngoài hợp tác đầu tư, kinh doanh dịch vụ logistic tại Việt Nam.

    Câu hỏi đặt ra là, làm sao để ngành dịch vụ logitics Việt Nam tận dụng tốt nhất những cơ hội phát triển đã và đang mở ra? Xuất phát từ những điểm yếu dễ thấy của ngành dịch vụ logistics Việt Nam, ông Ousmane Dione - Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam cho rằng: Nhằm tăng hiệu suất và giảm chi phí logistics, trước hết Việt Nam phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, nhất là thủ tục thông quan hàng hoá XNK.

    Về nội dung này, Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) còn chỉ rõ: Phải cắt giảm 50% các điều kiện kinh doanh, cải cách công tác quản lý, kiểm tra chuyên ngành, cắt giảm 50% các mặt hàng phải kiểm tra theo đúng chỉ đạo của Chính phủ, đảm bảo thực chất và hiệu quả và triển khai xây dựng và phát triển sàn giao dịch vận tải.

    Ngoài ra, theo ông Ousmane Dione: "Vận tải đường bộ hiện lớn hơn 4 lần so với đường thủy nội địa và đường sắt. Do đó, phải kết nối đa phương thức vận tải, đẩy mạnh vận tải đường thuỷ và đường biển. Trong điều kiện nguồn ngân sách khó khăn hiện nay, Việt Nam cần ưu tiên những dự án có tính xương sống, kết nối liên vùng hơn là những dự án riêng lẻ", ông Ousmane Dione nói.

    Một số DN logistics nêu quan điểm: Hoạt động logsitics mang tính đa ngành. Trong đó, hoạt động vận tải hàng hóa do Bộ Giao thông vận tải quản lý; hoạt động kho bãi, phân phối do Bộ Công Thương quản lý; hoạt động XNK hàng hóa do Bộ Tài chính quản lý… Tất cả các bộ, ngành khác quản lý thủ tục chuyên ngành áp dụng khi XNK hàng hóa. Để hoạt động logistics được quản lý, tổ chức và quy hoạch hiệu quả, cần thành lập cơ quan quản lý nhà nước hoặc giao trách nhiệm quản lý nhà nước đối với hoạt động logistics cho một bộ, ngành cụ thể.

    Theo Quyết định 200/QĐ-TTg ngày 14/2/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics đến năm 2025, mục tiêu đặt ra là: Đến năm 2025, tỷ trọng đóng góp của ngành dịch vụ logistics vào GDP đạt 8%-10%; tốc độ tăng trưởng dịch vụ đạt 15%-20%; tỷ lệ thuê ngoài dịch vụ logistics đạt 50%-60%; chi phí logistics giảm xuống tương đương 16%-20% GDP; xếp hạng theo chỉ số năng lực quốc gia về logistics (LPI) trên thế giới đạt thứ 50 trở lên.

    Tài chính logistics dnth vĩ mô chính sách
  • Login

  • Don't have an account? Register

Powered by NodeBB Contributors
  • First post
    Last post
0
  • Categories
  • Recent
  • Tags
  • Popular
  • Users
  • Groups