Hang từ china vềvmaf là thiết bị máy móc gần như là phải mất phí 80USD phí kiểm tra từ tính cho một loại thiết bị
NGG-LoGer
@NGG-LoGer
Bài viết hay nhất của NGG-LoGer
Latest posts made by NGG-LoGer
-
RE: Hàng đi Air Cargo từ China về Việt Nam trong trường hợp nào thì phải làm kiểm hoá từ ở sân bay
-
RE: Top 10 xu hướng Logistics 2020
Trang Techwire Asia nhận định, không giống như những nơi khác trên thế giới, trong bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ - Trung và đại dịch Covid-19, Việt Nam nổi lên là điểm sáng châu Á. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam nâng cao vị thế của trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Báo châu Á: Chuỗi cung ứng toàn cầu có thực sự hướng đến Việt Nam?
Có nhiều lý do khiến Việt Nam trở nên hấp dẫn và duy trì kết nối với các chuỗi cung ứng toàn cầu. (Nguồn: Techwire Asia)
Theo Techwire Asia, với dân số gần 100 triệu người, mỗi năm, quốc gia này đã tăng trưởng GDP từ 6% - 7% trong suốt hơn một thập niên qua.Trong khi, sự chuyển dịch của các quốc gia chuyển đến Việt Nam đã diễn ra, năm 2019 là một năm quan trọng đối với Việt Nam. Căng thẳng thương mại Mỹ-Trung đã thúc đẩy một loạt công ty đến Việt Nam.
Sự gần gũi địa lý của Việt Nam với Trung Quốc, giống như các quốc gia khác ở Đông Nam Á, là một trong những lý do khiến Việt Nam trở nên hấp dẫn và duy trì kết nối với các chuỗi cung ứng toàn cầu.
Bên cạnh đó, chi phí thấp, ổn định chính trị, các chính sách thân thiện với nhà đầu tư, cải thiện cơ sở hạ tầng và những nỗ lực được nhà nước hậu thuẫn để thúc đẩy các công ty khởi nghiệp. Những yếu tố đó khiến Việt Nam càng trở nên hấp dẫn hơn với các nhà đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra, trang Techwire Asia cho rằng, Việt Nam là thành viên của 13 hiệp định thương mại tự do (FTA), trở thành một trong những nền kinh tế cởi mở nhất. Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) vừa được phê chuẩn là những yếu tố thúc đẩy bổ sung cho các doanh nghiệp đang tìm cách chuyển dịch chuỗi cung ứng của mình.
Trong những năm gần đây, nhiều công ty đa quốc gia đã chuyển một số chuỗi cung ứng của họ ra khỏi Trung Quốc đến những nơi như Việt Nam, nơi lao động rẻ hơn và cơ sở hạ tầng tương đối đủ.
Nhu cầu đối với khu công nghiệp Việt Nam đã tăng vọt, cụ thể như ở Bình Dương - một tỉnh công nghiệp nằm liền kề với TP. Hồ Chí Minh - đã tăng là 97%.
Năm 2019, Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam, chiếm gần 1/5 trong tổng số 38 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mới vào Việt Nam, tiếp theo là Hong Kong (Trung Quốc), Nhật Bản và Trung Quốc.
Trang Techwire Asia cho hay, truyền thông Việt Nam đã đưa tin rằng, gã khổng lồ công nghệ Mỹ Apple đã bắt đầu sản xuất từ 3 đến 4 triệu chiếc tai nghe AirPod tại Việt Nam vào tháng 4. Đó là dấu hiệu cho thấy. một trong những hãng công nghệ lớn nhất thế giới đang chuyển chuỗi cung ứng của họ tách khỏi Trung Quốc.
Các báo cáo cũng lưu ý rằng, nhiều nhà cung cấp của Apple, bao gồm Foxconn và Pegatron và nhà sản xuất iPad Compal Electronics cũng đang mở rộng hoạt động tại Việt Nam. Inventec, một nhà lắp ráp AirPod, được cho là đang xây dựng một nhà máy ở Việt Nam.
Pegatron có kế hoạch đầu tư 1 tỷ USD vào thành phố cảng Hải Phòng, sau động thái chuyển sang Việt Nam của các nhà cung cấp khác cho công ty Cupertino, California.
Ngoài Hải Phòng, các nhà sản xuất đang "gõ cửa" các tỉnh phía Bắc của Việt Nam và cam kết hàng tỷ USD để thiết lập các hoạt động, điển hình là Samsung Electronics đang sản xuất khoảng một nửa số điện thoại thông minh ở các tỉnh phía Bắc Việt Nam.
Mặc dù không tránh khỏi tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng triển vọng phục hồi của Việt Nam vẫn tích cực và là điểm sáng nhất trong số các nước châu Á.
Tuy nhiên, trang Techwire Asia cũng lưu ý rằng, chiến tranh thương mại và đại dịch đã tạo ra đủ yếu tố thúc đẩy để khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất di dời khỏi Trung Quốc, thách thức lớn của Việt Nam hiện nay sẽ là làm thế nào để quản lý tăng trưởng bền vững.
-
Xu hướng dịch chuyển đầu tư và chuỗi cung ứng toàn cầu dưới tác động của dịch bệnh COVID-19 và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam
TCCS - Dịch bệnh COVID-19 đã làm bộc lộ những rủi ro khi cung ứng các sản phẩm, thiết bị thiết yếu bị gián đoạn, không kịp thời do mạng lưới chuỗi cung ứng trải rộng toàn cầu cũng như nhiều chuỗi cung ứng quá phụ thuộc vào các trung tâm sản xuất và các thị trường lớn, nhất là Trung Quốc. Bên cạnh việc tối ưu hóa sản xuất và chi phí, việc dịch chuyển đầu tư và chuỗi cung ứng còn nhằm để phân tán và giảm thiểu rủi ro. Hiện nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ và cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung Quốc ngày càng quyết liệt, xu hướng dịch chuyển đầu tư và chuỗi cung ứng toàn cầu đang thể hiện mạnh mẽ, đặt ra cho Việt Nam nhiều cơ hội và thách thức đan xen.
Xu hướng dịch chuyển đầu tư và chuỗi cung ứng toàn cầu dưới tác động của dịch bệnh COVID-19
Thứ nhất, dịch chuyển chuỗi cung ứng kéo theo dịch chuyển đầu tư, di chuyển toàn bộ hoặc một phần sản xuất về nước (reshoring) hoặc sang các nước khác trong khu vực (near-shoring) để giảm phụ thuộc vào Trung Quốc. Bên cạnh đó, một số chuỗi cung ứng được cơ cấu, sắp xếp lại thông qua mở rộng mạng lưới nhà cung cấp (outsourcing) để phân tán rủi ro, như đặt hàng mua linh kiện, nguyên liệu từ nhiều nhà cung cấp ở các nước khác nhau, mà không nhất thiết kéo theo dịch chuyển vốn đầu tư và sản xuất.
Các ngành, lĩnh vực đang có nhiều dịch chuyển, bao gồm: dệt may, thiết bị điện tử, viễn thông, phụ tùng, linh kiện ô-tô... (Trong ảnh: Công nhân làm việc tại nhà máy dệt ở tỉnh Giang Tô, Trung Quốc)_Ảnh: AFP
Thứ hai, các cấu phần/công đoạn thượng nguồn hoặc gắn với công nghệ cao thường được dịch chuyển về nước(1), trong khi các công đoạn hạ nguồn (lowstream)(2), gia công, lắp ráp thường được dịch chuyển ra nhiều nước nhằm phân tán rủi ro và tối ưu hóa chi phí sản xuất. Các ngành, lĩnh vực đang có nhiều dịch chuyển, bao gồm: dệt may, thiết bị điện tử, viễn thông, phụ tùng, linh kiện ô-tô, hàng hóa, trang thiết bị y tế và dược phẩm thiết yếu, năng lượng, tài chính, bất động sản.Thứ ba, các tập đoàn có khả năng dịch chuyển đầu tư hoặc chuỗi cung ứng chủ yếu là các tập đoàn tiếp cận các thị trường ngoài Trung Quốc có nhu cầu tối ưu hóa về chi phí, các tập đoàn đang đầu tư nhiều vào Trung Quốc có nhu cầu phân tán rủi ro, các tập đoàn chịu tác động trực tiếp của cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung Quốc. Đơn cử như, một số tập đoàn trong lĩnh vực công nghệ, máy tính, điện tử, điện thoại, như Foxconn, Winstron, Qishda, Pegatron, Inventec, Apple, Intel…, đã và đang xúc tiến kế hoạch đầu tư hoặc mở rộng sản xuất tại nhiều nước ngoài Trung Quốc, như Ấn Độ, Mexico, một số nước Đông Nam Á để giảm thiểu rủi ro gián đoạn cung ứng khi xảy ra biến động ở thị trường Trung Quốc.
Có thể thấy, dịch chuyển đầu tư và chuỗi cung ứng ra khỏi Trung Quốc thực chất là một xu hướng khách quan đã diễn ra trong nhiều năm nay với động lực chính được thúc đẩy bởi mục tiêu lợi nhuận, tối ưu hóa sản xuất, chi phí và sự phát triển của khoa học - công nghệ. Dưới tác động của dịch bệnh COVID-19, xu hướng này được đẩy mạnh hơn, bởi ngoài các động lực nói trên nay có thêm động lực phân tán và giảm thiểu rủi ro.
Dù được đẩy mạnh hơn, song thực tế cho thấy, trước mắt, xu hướng này chưa tạo ra làn sóng mạnh mẽ về dịch chuyển đầu tư trên toàn cầu, cũng như trong khu vực vì chưa có quốc gia nào thay thế được Trung Quốc trong chuỗi cung ứng - sản xuất toàn cầu cả về thị trường lẫn sản xuất. Trong số các nền kinh tế đang phát triển, Trung Quốc đến nay vẫn có năng lực cạnh tranh vượt trội về thị trường, hiệu quả theo quy mô, kết cấu hạ tầng, hệ thống logistics, mạng lưới công nghiệp hỗ trợ và nguồn cung lao động có kỹ năng. Bên cạnh đó, nhiều tập đoàn toàn cầu gắn kết lợi ích chặt chẽ với Trung Quốc về thị trường và sản xuất, nhiều năm đầu tư lớn cho phát triển chuỗi cung ứng tại Trung Quốc nên khó có thể rời đi trong thời gian ngắn(3), nên cho đến nay, hầu như chưa thay đổi chiến lược và kế hoạch đầu tư ở Trung Quốc. Nhiều tập đoàn thuộc nhóm 500 tập đoàn hàng đầu thế giới (Fortune 500) chưa sẵn sàng dịch chuyển toàn bộ hoặc phần lớn sản xuất ra khỏi Trung Quốc. Theo điều tra của Phòng Thương mại Mỹ, Nhật Bản, Liên minh châu Âu (EU) tại Trung Quốc, hơn 70% số doanh nghiệp Mỹ ở Trung Quốc và 90% số doanh nghiệp Nhật Bản ở miền Đông Trung Quốc chưa có kế hoạch rút khỏi Trung Quốc… Nhiều tập đoàn trong số này mặc dù chưa rút khỏi Trung Quốc nhưng vẫn tìm kiếm các nước khác để đầu tư nhằm giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc và phân tán rủi ro.
Về lĩnh vực chuyển dịch, nhiều sản phẩm/chi tiết/công đoạn thượng nguồn vẫn được giữ lại ở Trung Quốc hoặc nếu dịch chuyển khỏi Trung Quốc thì chủ yếu được đưa về nước như Mỹ, Nhật Bản, các nước EU... Những cấu phần sản xuất trong chuỗi cung ứng, giá trị toàn cầu đang hoặc có thể dịch chuyển sang các nước khác chủ yếu là công đoạn hạ nguồn bởi không đòi hỏi cao về công nghệ, cũng như trình độ lao động nên dễ tìm kiếm được địa bàn để phân tán rủi ro. Bên cạnh đó, việc di chuyển các công đoạn hạ nguồn sang các nước có chi phí lao động thấp hơn Trung Quốc còn nhằm kéo dài vòng đời dây chuyền công nghệ.
Chính sách của một số quốc gia trước xu hướng dịch chuyển đầu tư và chuỗi cung ứng
Các nước cung cấp vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) khuyến khích, thúc đẩy doanh nghiệp của mình đầu tư về nước. Mỹ ban hành nhiều chính sách để thu hút đầu tư, sản xuất, kinh doanh tại Mỹ, như miễn giảm thuế cho các doanh nghiệp Mỹ (giảm thuế thu nhập từ 25% xuống 21%), cải cách thủ tục cấp phép đầu tư, đưa ra các tiêu chuẩn linh hoạt hơn nhằm nâng cao tính cạnh tranh của một số ngành công nghiệp Mỹ (năng lượng, ô-tô, nhôm, thép…). Các nước EU thúc đẩy kinh tế “tự chủ chiến lược”, kiểm soát đầu tư ra nước ngoài, như Đức, Italia quy định chặt chẽ hơn đối với đầu tư ra nước ngoài trong các ngành chiến lược; Pháp triển khai chiến lược “sản xuất tại Pháp” nhằm thúc đẩy sản xuất trong nước trong các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao, như ô-tô, hàng không, công nghệ số… Nhật Bản dành ngân sách 2,2 tỷ USD, trong đó 2 tỷ USD hỗ trợ các doanh nghiệp Nhật Bản đưa sản xuất từ Trung Quốc về nước và khoảng 200 triệu USD hỗ trợ doanh nghiệp Nhật Bản di chuyển sản xuất, đa dạng hóa nguồn cung trong một số ngành ưu tiên (thiết bị y tế, phụ tùng ô-tô, điện tử, kim loại hiếm…). Hàn Quốc ban hành luật thu hút các doanh nghiệp đã đầu tư ở nước ngoài quay về sản xuất, kinh doanh tại Hàn Quốc…
Một số nước tăng cường ngăn chặn nhà đầu tư nước ngoài thâu tóm doanh nghiệp trong nước, nhất là trong lĩnh vực công nghệ, kết cấu hạ tầng quan trọng, an ninh - quốc phòng. Mỹ mở rộng phạm vi kiểm duyệt đầu tư đối với các dự án liên quan đến an ninh quốc gia; trao quyền cho Ủy ban Đầu tư nước ngoài (CFIUS) sàng lọc đầu tư trong các lĩnh vực công nghệ và kết cấu hạ tầng trọng yếu. Ấn Độ điều chỉnh chính sách quản lý đầu tư, theo đó, tất cả đầu tư từ các quốc gia láng giềng có chung biên giới với Ấn Độ đều phải được chính phủ xét duyệt. Đức tăng cường kiểm soát đầu tư nước ngoài vào kết cấu hạ tầng quan trọng. Pháp đưa ra danh sách công nghệ chịu sự kiểm soát của chính phủ, giảm tỷ lệ góp vốn của các nhà đầu tư ngoài EU được phép đầu tư vào các doanh nghiệp Pháp, từ 25% xuống 10%. Tây Ban Nha quy định các khoản đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực kết cấu hạ tầng quan trọng, cung ứng các nguyên liệu chủ chốt, phải được chính phủ phê duyệt.
Trong khi đó, một số nước tiếp nhận FDI đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư nhằm cạnh tranh thu hút FDI. Ấn Độ xem xét miễn thuế cho các dự án đầu tư mới trên 500 triệu USD, miễn thuế 4 năm cho các dự án đầu tư trên 100 triệu USD trong các lĩnh vực sử dụng nhiều lao động, như dệt may, da giày, chế biến thực phẩm. Indonesia ban hành các chính sách ưu đãi mới, hỗ trợ doanh nghiệp nước ngoài chuyển từ Trung Quốc sang Indonesia, thiết lập Khu công nghiệp Brebes dành riêng cho doanh nghiệp Mỹ. Thái Lan đẩy mạnh thu hút đầu tư trong lĩnh vực thiết bị y tế, ưu tiên các dự án công nghệ cao. Malaysia tăng ưu đãi thuế để thu hút đầu tư vào các lĩnh vực chiến lược.
Trung Quốc triển khai nhiều biện pháp khá mạnh mẽ nhằm “giữ chân” nhà đầu tư, giảm thiểu việc dịch chuyển sản xuất và chuỗi cung ứng ra ngoài Trung Quốc, như xây dựng các chính sách ưu đãi đặt biệt đối với các doanh nghiệp hàng đầu thế giới, nhất là các tập đoàn đa quốc gia của phương Tây; ban hành Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi; mở rộng các khu thí điểm tự do thương mại (FTZ) với nhiều ưu đãi; tăng cường hợp tác kinh tế với khu vực, trọng tâm là hợp tác khu vực Đông Bắc Á, ASEAN+1, ASEAN+3, thúc đẩy Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP); áp dụng một số rào cản kỹ thuật nhằm hạn chế nhà đầu tư rút vốn, chuyển sản xuất ra ngoài Trung Quốc...
Cơ hội, thách thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam
So với nhiều nước trong khu vực, Việt Nam có một số lợi thế để tranh thủ sự dịch chuyển đầu tư và chuỗi cung ứng, như chính trị - xã hội ổn định, nguồn lao động trẻ dồi dào, tiềm năng thị trường gần 100 triệu dân với tầng lớp khá giả ngày càng tăng... Mạng lưới các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam tham gia được nhiều doanh nghiệp đánh giá là một lợi thế lớn của Việt Nam để thu hút các nhà đầu tư di chuyển sản xuất sang Việt Nam nhằm tiếp cận các thị trường có FTA với Việt Nam. Đơn cử như, FTA Việt Nam - EU (EVFTA) bắt đầu có hiệu lực từ tháng 8-2020, tạo cho Việt Nam lợi thế đi trước hầu hết các nước trong khu vực từ 7 - 10 năm về đặc quyền tiếp cận thị trường EU rộng lớn với cam kết giảm thuế quan đối với gần 100% dòng thuế.
Đặc biệt, việc thực hiện thành công mục tiêu kép: vừa khống chế được dịch bệnh COVID-19, vừa thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội đã nâng cao uy tín của Việt Nam như một điểm đến đầu tư an toàn, có năng lực quản trị, cũng như khả năng kháng chịu, thích ứng tương đối tốt trước những biến động của thế giới. Đây cũng là lợi thế của Việt Nam so với nhiều nước trong khu vực còn chưa khống chế được dịch bệnh COVID-19 (Ấn Độ, Indonesia, Philippines…) trong cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài.
Nếu phát huy và khai thác tối đa những lợi thế trên, Việt Nam có cơ hội lớn với vị thế thuận lợi, đa dạng hóa, đa phương hóa việc tham gia các chuỗi cung ứng toàn cầu, sẽ thu hút các tập đoàn lớn, tập đoàn công nghệ có nhu cầu dịch chuyển sản xuất và chuỗi cung ứng, nhờ đó thúc đẩy đổi mới mô hình tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bên cạnh cơ hội có ý nghĩa lâu dài này, việc thu hút đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực đang dịch chuyển sản xuất và chuỗi cung ứng (điện tử, dệt may, linh kiện ô-tô…) còn trực tiếp góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, bảo đảm an sinh xã hội trong và sau dịch bệnh COVID-19.
Tuy nhiên, cơ hội, thuận lợi luôn đan xen với thách thức, khó khăn. Môi trường đầu tư của Việt Nam hiện còn nhiều điểm yếu, chậm được khắc phục, như hạn chế về năng lực quản lý, kết cấu hạ tầng, thủ tục đầu tư, thiếu lao động có kỹ năng, công nghiệp phụ trợ và mạng lưới logistics… Năng lực các doanh nghiệp trong nước, nhất là trong lĩnh vực công nghệ, là một trở ngại lớn để thu hút các chuỗi cung ứng của các tập đoàn công nghệ vào Việt Nam cũng như hạn chế khả năng Việt Nam tham gia các công đoạn cao trong mạng lưới sản xuất toàn cầu. Những điểm yếu này nếu không sớm khắc phục sẽ làm tăng nguy cơ lún sâu vào bẫy gia công, lắp ráp, khó kiểm soát được các dòng đầu tư chất lượng thấp, đầu tư thâu tóm thị trường và doanh nghiệp trong nước, đầu tư “núp bóng”...
Việc tranh thủ được cơ hội tới đâu và có vượt qua được thách thức hay không phụ thuộc nhiều vào cơ chế, chính sách của Nhà nước, ý chí và nỗ lực vươn lên của các doanh nghiệp trong nước. Nghị quyết số 50-NQ/TW, ngày 20-8-2019, của Bộ Chính trị (khóa XII), “Về đinh hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030”, có chủ trương xuyên suốt là thu hút đầu tư có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả và bảo vệ môi trường là tiêu chí đánh giá chủ yếu. Ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ sạch, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, có tác động lan tỏa, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu. Chính phủ đã ban hành chương trình hành động thực hiện nghị quyết này, trong đó giao nhiệm vụ cụ thể cho các bộ, ngành, địa phương. Vấn đề đặt ra là cần sớm đưa các chủ trương, chính sách, giải pháp đúng đắn đi vào cuộc sống bằng các biện pháp căn cơ và quyết liệt.
Xu hướng dịch chuyển đầu tư và chuỗi cung ứng toàn cầu vừa là cơ hội, vừa là thách thức, nên trong thu hút FDI hiện nay và thời gian tới cần quán triệt quan điểm phát triển bền vững, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường. Muốn vậy, cần tăng cường sự chủ động, tích cực của các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp. Trước hết, đó là chủ động, tích cực hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật liên quan đến đầu tư; chủ động tiếp cận các dòng vốn đầu tư có chất lượng thông qua đẩy mạnh xúc tiến đầu tư, tiếp cận, vận động các tập đoàn lớn, tập đoàn công nghệ; chủ động thúc đẩy hợp tác đầu tư và chuỗi cung ứng trong các khuôn khổ hợp tác với các đối tác có tiềm lực tài chính và công nghệ; chủ động chọn lọc các dự án đầu tư nước ngoài, kiên quyết từ chối các dự án không phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cũng như không đáp ứng các yêu cầu về tiêu chuẩn công nghệ, môi trường…
Xu hướng dịch chuyển đầu tư và chuỗi cung ứng toàn cầu vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với Việt Nam (Trong ảnh: Dây chuyền lắp ráp ô tô tại nhà máy của Công ty cổ phần Ô tô Trường Hải (Thaco) trong Khu kinh tế mở Chu Lai (huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam)) _Nguồn: thacochulai.vn
Bên cạnh việc tiếp tục nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, phát triển kết cấu hạ tầng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, năng lực khoa học - công nghệ và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước, các cơ quan liên quan cần sớm có quy định, chính sách ưu đãi cụ thể đi kèm với điều kiện được hưởng ưu đãi để thu hút đầu tư vào một số lĩnh vực, như hình thành các chuỗi sản xuất, cung ứng có giá trị gia tăng ở Việt Nam, thành lập các trung tâm đổi mới sáng tạo, trung tâm nghiên cứu - phát triển tại Việt Nam, liên kết với các doanh nghiệp Việt Nam trong các lĩnh vực chế biến, chế tạo, công nghiệp hỗ trợ; xây dựng các quy định có tính sàng lọc đầu tư nước ngoài, như quy định, cơ chế đánh giá yếu tố quốc phòng - an ninh, tiêu chuẩn công nghệ, môi trường, lao động, xuất xứ hàng hóa sản xuất tại Việt Nam trong thẩm định và cấp phép đầu tư nhằm khuyến khích đầu tư gắn với công nghệ cao; đồng thời, ngăn ngừa các dự án đầu tư tiềm ẩn rủi ro về mất an ninh, ô nhiễm môi trường, công nghệ lạc hậu, đầu tư "núp bóng", trốn tránh thuế quan, chuyển giá, gian lận thương mại…Ngoài các biện pháp trước mắt, biện pháp căn cơ và lâu dài là tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển các doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh có năng lực liên kết với các tập đoàn công nghệ trong các chuỗi cung ứng toàn cầu. Có như vậy, Việt Nam mới tranh thủ được cơ hội, cũng như giảm thiểu các thách thức từ xu hướng dịch chuyển đầu tư và chuỗi cung ứng toàn cầu để phát triển nhanh, bền vững và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong thời gian tới./.
Nguyen Hoai Nam
Ban KTTW
(1) Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc), Liên minh châu Âu (EU)…
(2) Các công đoạn giản đơn, giá trị gia tăng thấp
(3) Theo tính toán trong kịch bản thuận lợi nhất, tập đoàn Apple cần 5 năm để di chuyển 50% cơ sở sản xuất ra khỏi Trung Quốc, hiện vẫn xác định Trung Quốc là địa bàn chính -
Hệ thống REX là gì?
Hệ thống REX là gì?
Registered Exporter System (hệ thống REX) là một hệ thống chứng nhận xuất xứ hàng hóa dựa trên nguyên tắc tự chứng nhận. Xuất xứ hàng hóa được tuyên bố bởi chính các nhà khai thác kinh tế bằng cách gọi là tuyên bố xuất xứ. Để được quyền đưa ra một tuyên bố về nguồn gốc, một nhà điều hành kinh tế phải được đăng ký trong cơ sở dữ liệu bởi các cơ quan có thẩm quyền của mình. Nhà điều hành kinh tế trở thành một “nhà xuất khẩu đã đăng ký”.Hệ thống REX là thuật ngữ được sử dụng để chỉ định toàn bộ hệ thống chứng nhận xuất xứ, và không chỉ hệ thống CNTT cơ bản được sử dụng để đăng ký các nhà xuất khẩu.
Hiện tại, hệ thống REX được các nhà xuất khẩu EU sử dụng trong bối cảnh một số FTA, trong bối cảnh GSP của EU và trong bối cảnh Quyết định của Hiệp hội hải ngoại
Hệ thống CNTT REX đã được phát triển bởi Ủy ban châu Âu và được cung cấp cho các quốc gia thành viên của EU, cho các quốc gia thụ hưởng GSP và các OCTs. Nó có dạng một ứng dụng Web được truy cập với tên người dùng và mật khẩu làm trang web thông qua Internet. Yêu cầu kỹ thuật duy nhất là sau đó sử dụng một thiết bị được kết nối với Internet để có thể sử dụng hệ thống REX.
Các chức năng của hệ thống CNTT REX
Các chức năng chính của hệ thống REX là:Đăng ký nhà xuất khẩu: Các nhà xuất khẩu đăng ký để trở thành nhà xuất khẩu đã đăng ký bằng cách điền vào mẫu đơn và bằng cách gửi lại cho cơ quan có thẩm quyền của họ. Các cơ quan có thẩm quyền đăng ký các nhà xuất khẩu nộp các mẫu đơn đầy đủ và chính xác.
Sửa đổi dữ liệu đăng ký: một khi đã đăng ký, một nhà xuất khẩu đã đăng ký có nghĩa vụ liên lạc với cơ quan có thẩm quyền của mình tất cả các thay đổi trên dữ liệu đã đăng ký của mình. Các cơ quan có thẩm quyền sau đó thực hiện các sửa đổi trong hệ thống REX cho nhà xuất khẩu đã đăng ký.
Thu hồi các nhà xuất khẩu: trong một số trường hợp, một nhà xuất khẩu đã đăng ký sẽ bị thu hồi từ hệ thống REX. Điều này có thể xảy ra nếu công ty không còn tồn tại hoặc nếu nhà xuất khẩu đã đăng ký phạm tội lừa đảo. Tùy thuộc vào lý do, việc thu hồi được thực hiện theo yêu cầu của nhà xuất khẩu đã đăng ký hoặc theo sáng kiến của các cơ quan có thẩm quyền.
Với ba chức năng đăng ký nhà xuất khẩu, sửa đổi dữ liệu đã đăng ký và hủy bỏ nhà xuất khẩu, trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền là luôn luôn giữ một kho lưu trữ chính xác của nhà xuất khẩu đã đăng ký.
Áp dụng hệ thống REX trong bối cảnh Quyết định của Hiệp hội hải ngoại
Kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2020, hệ thống REX được áp dụng bởi các quốc gia và vùng lãnh thổ hải ngoại (OCTs) trong bối cảnh Quyết định của Hiệp hội hải ngoại (Câu OAD,), Quyết định của Hội đồng 2013/755 / EU, được sửa đổi bởi Quyết định của Hội đồng (EU) 2019 / 2196.OAD không cung cấp cho giai đoạn chuyển tiếp cho việc áp dụng hệ thống REX bởi các OCT. Do đó, kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2020, ưu đãi thuế quan sẽ được cấp khi nhập khẩu tại EU đối với các sản phẩm có nguồn gốc từ OCT chỉ khi trình bày các tuyên bố về xuất xứ được thực hiện bởi các nhà xuất khẩu đã đăng ký. Giấy chứng nhận xuất xứ EUR.1 hoặc khai báo xuất xứ được thực hiện bởi các nhà xuất khẩu được phê duyệt không còn được chấp nhận tại EU.
Áp dụng hệ thống REX trong sơ đồ GSP của EU
Hệ thống REX áp dụng kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2017 trong GSP (GSP tiêu chuẩn, GSP + và EBA). Nó dần dần thay thế hệ thống chứng nhận xuất xứ cũ dựa trên chứng nhận xuất xứ Mẫu A do các cơ quan chính phủ cấp và trên các tờ khai hóa đơn được thực hiện trong các điều kiện nhất định của các nhà khai thác kinh tế.
Các quốc gia thụ hưởng GSP sử dụng hệ thống do Ủy ban châu Âu cung cấp và không phải tự phát triển hệ thống CNTT của mình.
Khi tích lũy khu vực được áp dụng bởi các quốc gia thụ hưởng GSP, nguồn gốc của hàng hóa xuất khẩu từ quốc gia thụ hưởng cung cấp nguyên liệu cũng được tuyên bố bởi các nhà xuất khẩu đã đăng ký bằng cách khai báo xuất xứ.
Kể từ ngày 1 tháng 5 năm 2016 và việc áp dụng Bộ luật Hải quan Liên minh (UCC), các quy tắc của hệ thống REX trong bối cảnh GSP được quy định trong Quy định thực hiện của Ủy ban (EU) số 2015/2447 (UCC IA, cho “Đạo luật thực hiện”).
-
RE: Tổng quan Chuỗi cung ứng
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới theo hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa, vai trò của logistics ngày càng trở nên quan trọng, trở thành công cụ liên kết các hoạt động trong chuỗi giá trị toàn cầu. (GVC-Global Value Chain) từ khâu cung ứng, sản xuất, phân phối đến mở rộng thị trường cho các hoạt động kinh tế. Khi thị trường toàn cầu phát triển với những tiến bộ công nghệ, đặc biệt là việc mở cửa thị trường ở các nước đang và kém phát triển, logistics được các nhà quản lý coi là công cụ, là phương tiện để kết nối các lĩnh vực. Các lĩnh vực khác nhau của chiến lược doanh nghiệp. Logistics tạo ra sự hữu ích về thời gian và địa điểm cho các hoạt động kinh doanh.
Thế giới ngày nay được nhìn nhận như một nền kinh tế hội nhập, trong đó các doanh nghiệp mở rộng biên giới quốc gia và khái niệm thương mại quốc gia chỉ đứng sau hoạt động của các doanh nghiệp, chẳng hạn như thị trường tam giác gồm 3 khu vực: Nhật Bản, Mỹ-Canada và EU. Trong thị trường tam giác này, các công ty trở nên quan trọng hơn cả quốc gia vì sức mạnh kinh tế của họ đã vượt qua biên giới quốc gia, và quốc tịch của họ trở nên mờ nhạt.
Ví dụ, hoạt động của Toyota hiện nay, mặc dù đa số cổ đông của Toyota là người Nhật Bản và thị trường quan trọng nhất của Toyota là Hoa Kỳ, nhưng phần lớn xe Toyota bán tại Hoa Kỳ được sản xuất tại các nhà máy thuộc sở hữu của Hoa Kỳ. của Toyota. Như vậy, quốc tịch của Toyota đã bị xóa mờ, nhưng đối với thị trường Mỹ, rõ ràng Toyota là nhà sản xuất xe hơi và xe tải chất lượng cao.
Logistics đóng vai trò quan trọng trong việc tối ưu hóa quy trình sản xuất kinh doanh từ nguyên vật liệu đầu vào, phụ kiện… đến sản phẩm cuối cùng đến tay khách hàng sử dụng. Từ những năm 70 của thế kỷ XX, các cuộc khủng hoảng năng lượng liên tiếp xảy ra buộc các doanh nghiệp phải quan tâm đến chi phí, đặc biệt là chi phí vận chuyển. Trong nhiều thời kỳ, lãi suất cao khiến doanh nghiệp cảnh giác hơn với nguồn vốn, vì vốn bị đọng lại do tồn kho quá nhiều.
Chính trong giai đoạn này, cách thức tối ưu hóa quá trình sản xuất, lưu kho và vận chuyển hàng hóa được đặt lên hàng đầu. Và với sự trợ giúp của công nghệ thông tin, logistics là một công cụ đắc lực để thực hiện điều này. Logistics hỗ trợ nhà quản lý đưa ra các quyết định chính xác trong hoạt động sản xuất kinh doanh: Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các nhà quản lý phải giải quyết nhiều vấn đề khó khăn về cung ứng nguyên vật liệu, số lượng và thời gian. Hiệu quả trong việc bổ sung nguồn nguyên liệu, phương tiện và hành trình vận chuyển, địa điểm, thời điểm đổ thành phẩm, bán thành phẩm… Để giải quyết hiệu quả những vấn đề này, vai trò của logistics là không thể thiếu. logistics cho phép nhà quản trị kiểm soát và đưa ra quyết định chính xác các vấn đề trên nhằm giảm thiểu chi phí đảm bảo hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Logistics đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo yếu tố vừa kịp: Quá trình toàn cầu hoá kinh tế đã làm cho hàng hoá và sự vận động của chúng ngày càng phong phú và ngày càng trở nên khắt khe hơn. yêu cầu quản lý chặt chẽ, đặt ra các yêu cầu mới đối với dịch vụ giao nhận hàng hóa. Đồng thời, để tránh tình trạng tồn kho, doanh nghiệp phải đảm bảo lượng hàng tồn kho luôn ở mức nhỏ nhất. Nhờ đó, công tác giao thông nói riêng và hoạt động logistics nói riêng phải đảm bảo kịp thời, đúng hẹn. Đồng thời, mặt khác phải đảm bảo mục tiêu kiểm soát hàng tồn kho ở mức tối thiểu. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin cho phép kết hợp chặt chẽ giữa quá trình cung ứng, sản xuất, lưu kho, tiêu dùng với giao nhận hàng hóa, làm cho quá trình này trở nên hiệu quả và nhanh chóng hơn. , nhưng đồng thời phức tạp hơn.
-
RE: Kết nối nguồn lực thương mại điện tử, thanh toán và logistics
Logistics với Thương mại điện tử trong thời đại số
Việt Nam được đánh giá là một trong những thị trường thương mại điện tử phát triển nhanh nhất ở khu vực Đông Nam Á với mức tăng trưởng cao và liên tục từ năm 2015 đến nay. Cùng với sự bùng nổ của thương mại điện tử, logistics giữ vai trò quan trọng trong dây chuyền thương mại từ người bán đến người mua với quy trình hoàn tất đơn hàng, bao gồm các khâu đóng gói, vận chuyển, thu tiền và thậm chí chăm sóc khách hàng sau bán hàng. Điều này cho thấy giữa thương mại điện tử và logistics có mối liên kết chặt chẽ và tương trợ đắc lực cho nhau.
Logistics trong chuỗi cung ứng của thương mại điện tử
Báo cáo Thương mại điện tử các nước Đông Nam Á năm 2019 của Google, Temasek và Brain&Company dự đoán, tốc độ tăng trưởng trung bình cho cả giai đoạn 2015-2025 của thương mại điện tử Việt Nam là 29%. Dự báo đến năm 2025, quy mô thương mại điện tử của Việt Nam sẽ vươn tới ngưỡng 43 tỷ USD và đứng thứ 3 trong khối ASEAN. Trong năm 2020, Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (VECOM) dự báo, tốc độ tăng trưởng sẽ ở mức trên 30% và quy mô thương mại điện tử Việt Nam sẽ vượt con số 15 tỷ USD. Đặc biệt, trong những tháng cao điểm chống dịch Covid-19 của năm 2020, hành vi mua sắm của người tiêu dùng có sự thay đổi mạnh mẽ khi nhanh chóng chuyển từ mua sắm trực tiếp sang mua sắm trực tuyến.
Hình thức mua sắm trực tuyến có 2 nhóm sản phẩm trao đổi được phân chia cụ thể. Nhóm thứ nhất là các sản phẩm vô hình có thể số hóa, chuyển giao trên nền tảng internet như các sản phẩm nhạc, phần mềm máy tính, trò chơi và các tiện ích của trò chơi trực tuyến… Nhóm thứ hai là các sản phẩm hữu hình, có trọng lượng, thể tích, không thể số hóa được như quần áo, dụng cụ, thiết bị gia đình, thiết bị điện tử, điện lạnh… Điều đáng nói là trong thương mại điện tử, dù giao dịch được thực hiện trên môi trường mạng nhưng dịch vụ logistics và chuyển phát chính là mắt xích không thể thiếu để hoàn thành các đơn hàng thương mại điện tử của nhóm sản phẩm hữu hình này. Hệ thống logistics giữ vai trò quan trọng giúp liên kết và tối ưu toàn bộ quá trình sản xuất và lưu thông trên phạm vi rất rộng, từ trong quốc gia, trong khu vực và đến toàn thế giới. Đối với toàn bộ quá trình lưu thông, phân phối hàng hóa, việc ứng dụng hệ thống logistics là một bước phát triển cao hơn của dịch vụ giao nhận kho vận, dịch vụ vận tải đa phương thức. Vận tải đa phương thức đã liên kết được tất cả các phương thức vận tải với nhau để phục vụ cho nhu cầu cung ứng và tiêu thụ của nhà sản xuất, nhà phân phối cũng như nhu cầu với sản phẩm của người tiêu dùng. Với các doanh nghiệp thương mại điện tử, giao nhận do doanh nghiệp đảm nhận giúp tiết giảm thời gian xử lý đơn hàng, giảm chi phí vận hành và tạo nên sự khác biệt trong dịch vụ cung ứng. Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới (Worldbank), thị trường logistics dành cho thương mại điện tử Việt Nam có quy mô lên đến 560 triệu USD.
Trong quy trình giao dịch trực tuyến, việc đẩy nhanh tốc độ giao hàng cũng ngày càng quan trọng, thậm chí tầm quan trọng không kém so với việc đảm bảo chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, với đặc điểm của thương mại điện tử là người bán và người mua không trực tiếp gặp mặt để giao dịch, lòng tin chưa vững, việc thực hiện logistics hiệu quả chính là yếu tố quyết định góp phần tạo nên lòng tin cho khách hàng. Về dài hạn, khi thị trường trực tuyến tại Việt Nam được kỳ vọng sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh, thương mại điện tử rất cần có một hệ thống logistics phát triển tốt để đáp ứng nhu cầu vận tải và hậu cần vận tải cho ngành. Hệ thống logistics ở Việt Nam được phân loại thành các trung tâm phân phối, trung tâm hoàn tất đơn hàng, trung tâm cung ứng dịch vụ vận tải, trung tâm cung ứng dịch vụ logistics đa chức năng. Cùng với sự bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 và mục tiêu hướng đến nền kinh tế số trong đó thương mại điện tử là một trụ cột quan trọng, Việt Nam hiện đang tiến hành ứng dụng khoa học công nghệ cao như blockchain vào hoạt động logistics. Trong đó phải kể đến việc nghiên cứu áp dụng đại trà e-DO (Giấy giao hàng điện tử) cho các lô hàng lẻ (LCL) và tham gia dự án e-B/L của Hiệp hội Giao nhận vận tải quốc tế FIATA. Thực tế đang dần chứng minh việc ứng dụng thành tựu công nghệ trong phân tích dữ liệu, phối hợp nguồn nhân lực vào hoạt động sản xuất kinh doanh đang dần là xu thế và là giải pháp tối ưu. Vì vậy, ứng dụng công nghệ vào logistics, tham gia sâu vào hoạt động của chuỗi cung ứng đã giúp doanh nghiệp Việt có được công nghệ logistics, xây dựng thương hiệu, nâng tầm quốc tế; đồng thời giảm thiểu chi phí, đặc biệt là đẩy nhanh tốc độ giao hàng cho các đơn hàng thương mại điện tử. Hiện nay, các doanh nghiệp tiên phong ứng dụng công nghệ vào logistics giúp thuận lợi hóa thương mại điện tử tại Việt Nam phải kể đến Hateco logistics, Vietnam Post, Tân Cảng Sài Gòn, Viettel post, Gemadept…
Thương mại điện tử tạo động lực phát triển logistics
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập và mở cửa, khối lượng hàng hóa luân chuyển không ngừng tăng lên, nhu cầu của người tiêu dùng cũng ngày càng tăng đã kéo theo sự tăng trưởng của logistics. Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, năm 2019, dịch vụ vận tải hàng hóa đạt 1.684,1 triệu tấn, tăng 9,7% so với năm trước, trong đó vận tải trong nước đạt 1.650 triệu tấn, tăng 9,8%, vận tải nước ngoài đạt 34,1 triệu tấn, tăng 4,3%. Năm 2020, dù hoạt động vận tải là một trong những lĩnh vực chịu nhiều ảnh hưởng từ các biện pháp kiểm soát đại dịch Covid-19 nhưng mức giảm của vận tải hàng hóa không quá nhiều so với nhiều lĩnh vực khác, giảm 7,3% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó vận tải trong nước chiếm trên 98% khối lượng hàng hóa cũng chỉ giảm 7,2%, vận tải nước ngoài dù giảm tới 14,9% nhưng chỉ chiếm khoảng 2% khối lượng hàng hóa.
Trong khoảng thời gian chống dịch cao điểm từ tháng 2 đến tháng 4, thói quen tiêu dùng và mua sắm của người tiêu dùng từ mua hàng trực tiếp sang mua hàng trực tuyến đã có sự chuyển biến mạnh mẽ chưa từng có trước đây. Các trang thương mại điện tử như Tiki, Sendo, Lazada, Shopee… hoạt động nhộn nhịp và sôi nổi. Việc giao dịch mua bán trên mạng với các mặt hàng thiết bị y tế, khẩu trang, nước rửa tay, thực phẩm… được ghi nhận mức tăng rất mạnh. Điều đó đã góp phần tác động giúp một bộ phận logistics đang bị ảnh hưởng bởi dịch không bị thiệt hại quá sâu.
Bên cạnh sự bùng nổ của thương mại điện tử trong năm 2018-2019, các chuyên gia cho rằng vận tải và logistics trong thương mại điện tử Việt Nam cũng có bước chuyển mình mạnh mẽ. Sự gia tăng lưu lượng hàng hóa giao dịch qua các kênh trực tuyến khiến nhu cầu vận tải, logistics và giao hàng tăng cao. Theo Bộ Công thương, chỉ riêng số lượng đơn hàng qua Công ty Giao hàng nhanh đã tăng trưởng trung bình 45% trong giai đoạn 2015-2020 và có thể đạt 530 triệu đơn hàng trong năm 2020. Nhiều doanh nghiệp ngành bán lẻ như Vincommerce, Thế giới di động, FPT, Lottte, Aeon… đang định hướng phát triển E-commerce. Với tiềm năng đầy triển vọng, thương mại điện tử Việt Nam cũng thu hút các đại gia đầu ngành của thế giới như Alibaba, Amazon… gia nhập vào thị trường làm cho lĩnh vực logistics trở nên sôi động hơn. Ngoài ra, các chuyên gia cũng nhận định trong năm 2020, nhiều thương vụ mua bán và sáp nhập (M&A) sẽ đổ dòng tiền vào lĩnh vực vận tải và logistics bởi lĩnh vực này còn rất nhiều tiềm năng.
Để lý giải thêm cho việc thương mại điện tử gia tăng sức bật cho logistics, trong Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử quốc gia giai đoạn 2021-2025 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong Quyết định số 645/QĐ-TTg ngày 15/05/2020 đã đề cập đến giải pháp tăng cường năng lực các hệ thống hạ tầng và dịch vụ hỗ trợ cho thương mại điện tử. Trong đó giải pháp đặt ra yêu cầu có sự cải tạo, phát triển hạ tầng logistics, cụ thể: Cải thiện hạ tầng dịch vụ chuyển phát và logistics cho thương mại điện tử, ứng dụng các công nghệ mới trong hoạt động logistics; khuyến khích thí điểm và triển khai ứng dụng các phương tiện giao thông mới hỗ trợ việc vận chuyển, giao nhận hàng hóa trong thương mại điện tử; khuyến khích các giải pháp tổng thể liên kết doanh nghiệp hậu cần từ chặng đầu tới chặng cuối; nghiên cứu bài bản các giải pháp cho chuyển phát xuyên biên giới, logistics trong đô thị. Thêm vào đó, cần xây dựng hệ thống quản lý trực tuyến các dịch vụ vận chuyển, giao nhận và hoàn tất đơn hàng cho thương mại điện tử bao phủ tất cả các tỉnh, thành phố trên cả nước, từng bước mở rộng ra khu vực nhằm đẩy mạnh hoạt động thương mại điện tử xuyên biên giới; ban hành hệ thống tiêu chuẩn cho dịch vụ chuyển phát và hoàn tất đơn hàng trong thương mại điện tử; xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu địa chỉ; phát triển nền tảng Bản đồ số Việt Nam để hỗ trợ phục vụ cho công tác quản lý trực tuyến dịch vụ bưu chính, vận chuyển, giao nhận và hoàn tất đơn hàng cho thương mại điện tử trên phạm vi toàn quốc.
Tuy nhiên hiện nay, tỷ lệ chi phí dành cho dịch vụ logistics và chuyển phát tại Việt Nam còn khá cao trong các giao dịch sản phẩm hữu hình của thương mại điện tử; mặt khác, người tiêu dùng ít nhiều còn e ngại về thời gian giao hàng không đúng cam kết, khó truy vết người bán hay khâu trả lại hàng còn nhiều phức tạp, dẫn đến giá mua hàng trực tuyến không thấp hơn nhiều so với mua hàng theo phương thức truyền thống.
Như vậy, thương mại điện tử giữ vai trò tăng cường sức bật cho logistics, trong khi logistics là một phần không thể thiếu trong chuỗi cung ứng của thương mại điện tử. Sự thay đổi về phương thức và thay đổi của thương mại điện tử cả trong nước và trên thế giới sẽ có tác động mạnh, thúc đẩy ngành logistics theo hướng chuyên nghiệp và hiệu quả hơn; đồng thời cũng gây áp lực lớn tới chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp logistics. Các doanh nghiệp logistics tại Việt Nam cũng đứng trước yêu cầu phải có sự đầu tư công nghệ, độ kỹ lưỡng, nâng cao chất lượng trong dịch vụ vận tải và logistics; phải thay đổi để thích nghi và phát triển hoặc chấp nhận bị cạnh tranh và thôn tính. Đặc biệt, các doanh nghiệp cần chú tâm phát triển thêm khu vực logistics chuyên biệt cho thương mại điện tử xuyên biên giới và nhập khẩu (4PLs). Mặt khác, với xu hướng mua sắm qua mạng ngày càng phổ biến, chuỗi cung ứng logistics cần được cắt ngắn lại, bỏ bớt khâu trung gian để hàng hóa đi thẳng từ tổng kho của nhà phân phối đến tay người tiêu dùng./.
ThS. Đỗ Thị Thúy
Trường Đại học Lao động - Xã hội -
RE: KÉO & ĐẨY TRONG QUẢN TRỊ SẢN XUẤT
Sản xuất cần phải nghiên cứu các công đoạn để tính toán trong quản trị
Kéo và Đẩy là các biện pháp ..