Chuỗi cung ứng của Dell



  • A. Giới thiệu về công ty máy tính Dell:

    Dell Incorporated là một công ty đa quốc gia của Hoa Kỳ về phát triển và thương mại hóa công nghệ máy tính, có trụ sở chính tại Round Rock, Texas, Hoa Kỳ do Michael Dell thành lập năm 1984. Các dòng sản phẩm chính của Dell phải kể đến là máy tính xách tay, máy tính để bàn, máy chủ, netbook, thiết bị ngoại vi, máy in, tivi, máy quét, thiết bị lưu trữ, điện thoại thông minh.

    Bằng hình thức bán hàng trực tiếp cho khách hàng, trong những năm 1984, Dell đã sử dụng đến 800 số điện thoại dành cho khách hàng gọi điện đặt mua máy tính với giá thấp hơn nhiều so với các công ty khác. Dell nhanh chóng trở thành nhà phân phối lớn nhất về máy tính cá nhân qua bưu điện. Với doanh số khá khiêm tốn khoảng $6 triệu trong năm 1985, Dell nhanh chóng đẩy doanh số lên gần $40 triệu vào ngay năm sau đó. Vào năm 1987, Dell bắt đầu phát triển hệ thống các nhà máy chế tạo của riêng mình Hãng Dell cũng bắt đầu xây dựng hệ thống hỗ trợ khách hàng trong cả nước Mỹ và bắt đầu cung cấp các dịch vụ lắp đặt, sửa chữa, bảo hành, bảo dưỡng ngay tại nhà cho các sản phẩm của chính mình Cũng vào năm 1987 hãng Dell đã mở văn phòng đầu tiên của mình tại Anh, mở đầu cho công cuộc chinh phục thế giới. Hãng cũng bắt đầu cho xuất bản cuốn catalog đầu tiên của mình. Vào năm 1989, hãng bắt đầu sản xuất những server đầu tiên trên cơ sở Unix và hợp tác với Intel để đưa bộ vi xử lý 486 vào máy tính của mình ngay sau khi nó được xuất xưởng. Dell cũng bắt đầu tham gia bán máy in kim do hãng Epson sản xuất và vào năm 1990 doanh số bán máy in kim Epson đã lên tới $ 546 triệu bằng 40% của doanh số toàn hãng. Năm 1995, giá trị cổ phiếu của Dell lên đến 100 USD/CP và năm 1997, Dell bán ra chiếc PC thứ 10 triệu.

    Từ năm 1996, Dell bán sản phẩm trực tuyến trên mạng Internet. Dell Computer Corp. là nhà cung cấp máy tính cá nhân lớn nhất trên thế giới, một danh hiệu mà Dell dành được từ tháng 4 năm 2001 sau khi đánh bại đối thủ Compaq Computer Corp. (tuy nhiên danh hiệu này đã bị HP đoạt mất vào cuối năm 2006). Tập đoàn này cũng là nhà cung cấp máy tính cá nhân lớn nhất qua mạng internet, một kênh bán hàng hữu hiệu chiếm hơn nửa doanh số bán ra của Dell. Chỉ riêng trong năm 2000, doanh số bán ra của Dell đã đạt mức $32 tỷ và sử dụng hơn 38.000 nhân viên trên toàn thế giới. Từ năm 2002, Dell xâm nhập lĩnh vực truyền thông đa phương tiện. Từ năm 2007, Dell thay đổi chiến lược tiêu thụ sản phẩm bằng cách vừa sử dụng các đại lý vừa hợp tác với các hãng bán lẻ.

    Tạp chí Fortune xếp Dell đứng thứ 10 trong danh mục “Các công ty triển vọng nhất” trong năm 2001.Năm 2006, Dell là công ty đứng hạng thứ 25 (bảng xếp hạng Fortune 500) trong danh sách những công ty lớn nhất nước Mỹ, và là công ty được xếp hạng thứ 8 trong số những công ty đáng để được khâm phục của Mỹ (Fortune’s Top 20 List). Năm 2010, Dell có khoảng 96000 nhân viên trên toàn cầu. doanh thu năm 2010 là khoảng 52,902 tỷ USD. Sau gần 30 năm, từ 1.000 USD vốn đầu tư lúc khởi nghiệp, doanh số kinh doanh của Dell năm 2012 đạt hơn 62 tỷ USD. Trên khắp thế giới hiện có 109.400 người làm việc cho Dell. Năm 2012, hãng xếp hạng giá trị thương hiệu Interbrand đặt Dell ở vị trí thứ 49 với giá trị thương hiệu 7,6 tỷ USD trong số 100 thương hiệu sáng giá nhất thế giới.

    B. Chuỗi cung ứng của Dell

    Mô hình chuỗi cung ứng của Dell:
    Mô hình chuỗi cung ứng của Dell mà chúng tôi phân tích là bán hàng trực tiếp cho khách hàng CTO (Configuration to Order- khách hàng được yêu cầu cấu hình máy) hay MTO (Make to Order- sản xuất theo đơn đặt hàng). Đây là mô hình tạo nên sự thành công cho Dell. Với mô hình này, Dell bỏ qua các nhà phân phối và các nhà bán lẻ, do đó chuỗi cung ứng của Dell chỉ có 3 thành phần, đó là: nhà cung cấp linh kiện, nhà lắp ráp và khách hàng.

    Tuy nhiên, đến năm 2007, khi Dell đột ngột thay đổi vị trí phó chủ tịch phủ trách chuỗi cung ứng, chiến lược của Delll cũng có những thay đổi nhất định. Dell cũng áp dụng mô hình truyền thống mà các đối thủ cạnh tranh đang theo đuổi: Make to Stock – xây dựng hệ thống nhà phân phối, sử dụng nhà sản xuất theo hợp đồng tại các nước chi phí thấp, và hợp tác với các nhà bán lẻ để phân phối sản phẩm của mình. Lúc này, Dell sử dụng dịch vụ của FedEx (Federal Express, là công ty giao nhận kho vận Hoa Kỳ) và UPS (một trong những công ty chuyển phát nhanh hàng hóa lớn nhất thế giới và dẫn đầu về cung cấp các dịch vụ kho vận và vận chuyển chuyên nghiệp toàn cầu). Dell cũng sử dụng dịch vụ của các công ty logistics để nhận, lưu kho và vận chuyển linh kiện, thiết bị từ các nhà cung cấp khác nhau. Dell sử dụng lợi thế của công nghệ thông tin và web để chia sẻ thông tin giữa các đối tác nhằm giảm thiểu hàng hóa lưu kho.

    Thành phần trong chuỗi cung ứng của Dell và vai trò của họ trong chuỗi.
    Mỗi thành phần trong chuỗi cung ứng đều có những vai trò của họ. Việc tổ chức và quản lý tốt các thành phần này sẽ đem lại những giá trị to lớn cho doanh nghiệp và Dell là một ví dụ điển hình cho sự thành công đó.

    a. Nhà cung cấp:

    Dell đã xây dựng được mối quan hệ rất tốt và bền vững với các nhà cung cấp của mình. Việc thiết lập mối quan hệ gần gũi với đối tác cung cấp này cho phép Dell đạt lợi nhuận tối đa mà không cần phải đáp ứng đầu tư hàng tỷ đồng để tự mình thực hiện các hoạt động sản xuất.

    Dell yêu cầu các nhà cung cấp chính thiết lập hệ thống hàng hóa gần các cơ sở lắp đặt của hãng. Việc này cho phép công ty liên kết với các nhà kho chứa hàng thời gian thực để có thể vận chuyển con số chính xác các bộ phận được yêu cầu trong thời gian ngắn. Dell xây dựng một sự giao tiếp liên tục với các nhà sản xuất linh kiện.

    Một số nhà cung cấp linh kiện, phần mềm chính của Dell:

    Intel
    Tập đoàn Intel (Integrated Electronics) thành lập năm 1968 tại Santa Clara, California, Hoa Kỳ. Intel sản xuất các sản phẩm như chip vi xử lý cho máy tính, bo mạch chủ, ổ nhớ flash, cạc mạng và các thiết bị máy tính khác. Ban đầu, Intel là nhà sản xuất bộ nhớ SRAM và DRAM và đây là sự kiện tiêu biểu đầu tiên cho các nhà sản xuất chip bộ nhớ sau này. Từ bấy lâu nay, Intel luôn là nhà cung cấp duy nhất, độc tôn, cung cấp đại đa số vi xử lý cho Dell.

    Đến khoảng năm 2006, Dell cũng có mở rộng sử dụng chip Opteron của AMD cho một trong những model máy chủ cao cấp, đa vi xử lý của mình. Tuy nhiên, đây chỉ là một thị trường hẹp của Dell. ADM được W.J. Sanders III thành lập vào năm 1969, ngày nay AMD trở thành một công ty đa quốc gia với hàng chục ngàn nhân viên tại châu Âu, Nhật Bản, Hoa Kỳ… với tổng doanh số (2003) là 3,5 tỷ đôla Mỹ. AMD nổi tiếng với dòng sản phẩm Athlon cho thị trường cao cấp và Duron cho thị trường cấp thấp giá rẻ. Một số linh kiện của các thế hệ đời trước của máy tính Apple cũng do AMD cung cấp. Thế hệ vi xử lý mới nhất của hãng hiện nay (đời thứ hỗ trợ tập lệnh mở rộng AMD64 cho điện toán 64 bit là AMD Athlon 64 cho thị trường máy tính để bàn và AMD Opteron cho thị trường máy chủ và trạm làm việc. Năm 2007 AMD đã mua lại hãng sản xuất chip đồ hoạ: ATI Technologies càng làm đa dạng thêm các sản phẩm của mình.

    Microsoft
    Microsoft là một tập đoàn đa quốc gia của Hoa Kỳ đặt trụ sở chính tại Redmond, Washington; chuyên phát triển, sản xuất, kinh doanh bản quyền phần mềm và hỗ trợ trên diện rộng các sản phẩm và dịch vụ liên quan đến máy tính. Công ty được sáng lập bởi Bill Gates và Paul Allen vào ngày 4 tháng 4 năm 1975. Nếu tính theo doanh thu thì Microsoft là hãng sản xuất phần mềm lớn nhất thế giới. Nó cũng được gọi là “một trong những công ty có giá trị nhất trên thế giới”. Các dòng sản phẩm của Dell gắn liền với nền tảng hệ điều hành Windows của Microsoft.

    Philips electronics NV ( Hà Lan)
    Philips là tên gọi phổ biến nhất của Koninklijke Philips Electronics N.V. (Royal Philips Electronics), là một công ty điện tử đa quốc gia Hà Lan. Philips là một trong những công ty điện tử lớn nhất thế giới. Trong năm 2010, doanh thu của công ty này đạt 25,42 tỉ Euro. Công ty có 119.000 nhân viên tại hơn 60 quốc gia.Philips hoạt động ở một số lĩnh vực: điện tử tiêu dùng, chiếu sáng, thiết bị y tế,..

    Năm 2002, một hợp đồng trị giá 5 tỷ USD trong thời hạn 5 năm đã được ký giữa hãng Philips Electronics NV (Hà Lan) và nhà sản xuất máy tính Dell (Mỹ). Philips sẽ cung cấp đèn chân không và màn hình phẳng, các thiết bị lưu trữ, giải pháp kết nối cùng những linh kiện khác cho Dell.

    Ngược lại, Dell cũng sẽ hỗ trợ máy chủ, máy trạm và máy tính cá nhân cho Philips. Glenn Neland, Phó chủ tịch của Dell, cho biết: “Việc mở rộng quan hệ với Philips sẽ giúp chúng tôi đáp ứng được nhu cầu về công nghệ của khách hàng trên toàn cầu”. Ngoài ra, hai bên còn hợp tác trong việc đề xuất kế hoạch công nghệ, marketing và các chuẩn lưu trữ quang học. Philips là nhà sản xuất đồ điện tử gia dụng lớn nhất châu Âu và đứng thứ 3 khu vực về sản xuất chất bán dẫn.

    Như vậy, có thể thấy mối quan hệ giữa Phillips và Dell là sự hợp tác mà đôi bên cùng có lợi, mỗi bên đều đạt được mục đích của mình. Việc liên kết với một trong những công ty điện tử tên tuổi đem lại lợi thế không hề nhỏ cho Dell, nó đảm bảo chất lượng linh kiện, bộ phận trong sản phẩm của Dell, đồng thời cũng tạo lợi thế cạnh tranh cho Dell trên thị trường do uy tín của Philips mang lại.

    Compal và wistron
    Bên cạnh Philips, Dell còn hợp tác với rất nhiều nhà cung cấp khác, hai trong số đó là Compal Electronics và Wistron. Công ty Compal Electronics Inc. (Đài Loan) – nhà nghiên cứu, phát triển và sản xuất máy tính xách tay và các thiết bị, linh kiện điện tử cho các hãng máy tính nổi tiếng thế giới như Dell, Samsung, Nokia… còn Wistron là nhà sản xuất thầu phụ laptop lớn thứ ba thế giới sau Quanta Computer Inc và Compal Electronics Inc. Hai hãng Compal Electronics và Wistron đã cùng chia nhau lượng đơn đặt hàng sản xuất ODM máy tính xách tay cho hãng Dell trong năm 2013 với tỷ lệ 70:30. (ODM là Original designed Manufacturer, nhà sản xuất thiết kế gốc. Ở dạng này nhà sản xuất cung cấp cho khách hàng tất cả mọi dịch vụ liên quan đến sản phẩm như nghiên cứu và phát triển, định hướng sản phẩm cũng như sản xuất. Khách hàng chỉ cung cấp cho nhà sản xuất chức năng yêu cầu, hiệu xuất hoặc thậm chí chỉ cung cấp một khái niệm và nhà sản xuất sẽ thực hiện thành sản phẩm).

    Được biết, những đơn hàng của năm 2013 mà Dell dành cho Compal bao gồm hầu hết là các mẫu sản phẩm máy tính dành cho doanh nghiệp, còn những mẫu notebook dành cho người tiêu dùng được chia cho cả Compal và Wistron. Mục tiêu nhiều tham vọng của Dell trong năm 2013 là xuất xưởng được 30 triệu chiếc notebook, sau khi hãng này dự báo lượng xuất notebook trong năm nay của họ sẽ đạt được mức 20-23 triệu đơn vị sản phẩm.

    Việc hợp tác với hai “ông lớn” trong lĩnh vực linh kiện điện tử này tạo điều cho Dell trong việc tiết kiệm thời gian, chi phí cho việc tự sản xuất. Tuy nhiên, cũng như các đối tác khác của Compal như Acer. HP, Apple… Dell cũng gặp phải không ít các khó khăn khi nhà sản xuất này đột ngột tăng giá các bộ phận máy tính nhằm chống đỡ sự sụt giảm về lợi nhuận. Sự gia tăng về chi phí nguyên vật liệu chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới giá những sản phẩm máy tính của Dell, từ đó ảnh hưởng tới mức tiêu thụ các sản phẩm của hàng trên thị trường.

    Asus
    Cũng giống như các nhà cung cấp trên, Asus cũng là một công ty cung cấp linh kiện cho Dell, nhưng câu chuyện với Asus lại không phải là một cái kết có hậu.

    ASUSTeK Computer Incorporated (ASUS) là một tập đoàn đa quốc gia đặt trụ sở tại Đài Loan chuyên sản xuất các mặt hàng điện tử như bo mạch chủ, máy tính xách tay, máy chủ, điện thoại di động và các sản phẩm máy tính khác. Thời điểm những năm 2000, ASUS là 1 nhà thầu nhỏ phụ trách những linh kiện rất đơn giản trên máy tính đóng mác Dell. Lúc này 1 sản phẩm của Dell khi đó sẽ ra đời từ thiết kế của chính hãng này, và các khâu lắp ráp, cùng rất nhiều linh kiện trọng yếu như bo mạch chủ, RAM và màn hình đều do Dell đảm nhiệm… Những linh kiện khác, ít quan trọng hơn như vỏ máy, tản nhiệt… được đặt các nhà thầu ở châu Á gia công, và một trong số đó là ASUS. Sau 1 vài năm đảm nhiệm việc xử lý những tiểu tiết cho Dell, đại diện của ASUS đưa ra 1 đề nghị rất xuôi tai: ASUS sẽ đảm nhiệm hoàn toàn công đoạn chế tạo bo mạch chủ của các máy tính dán mác Dell với mức giá thấp hơn 20% so với mức giá xuất xưởng của chính Dell. Chưa nói tới 20% chênh lệch kia sẽ đi thẳng vào lợi nhuận của Dell, chỉ cần xét đến việc Dell được trút bỏ gánh nặng của việc quản lý những nhà máy với hàng chục ngàn công nhân cùng hàng trăm vấn đề phức tạp đã khiến Dell gật đầu ngay lập tức.

    Sau đó vài năm, đại diện của ASUS liên tục viếng thăm tổng hành dinh của Dell và đem tới những lời đề nghị ngày càng hấp dẫn hơn. ASUS có thể làm được những gì Dell làm, thậm chí còn tốt hơn với 1 mức giá rẻ hơn. Dell không mất gì mà càng ngày càng “nhàn hạ” hơn trong việc đưa 1 sản phẩm ra thị trường. Dell chỉ có việc tìm hiểu xem khách hàng muốn gì, viết các yêu cầu đó ra giấy và chuyển cho ASUS rồi rung đùi ngồi đợi sản phẩm ra lò, cộp mác Dell lên vỏ hộp rồi tung ra thị trường. Từ chỗ là 1 công ty sản xuất máy tính, dần dà Dell đã trở thành 1 công ty bán lẻ thiết bị. Tuy nhiên, lần cuối cùng đại diện của ASUS bay tới Mỹ, ông ta không tới tổng hành dinh của Dell mà đi thăm các hãng bán lẻ như Best Buy, Walmart để quảng bá cho thương hiệu laptop đóng mác ASUS với chất lượng “như hàng của Dell” nhưng có giá thấp hơn 20%. Những năm dài làm “culi” cho Dell cuối cùng đã được trả công, với kinh nghiệm của mình ASUS trở thành 1 trong những hãng laptop có doanh số lớn và là 1 đối thủ cạnh tranh trực tiếp của Dell. Trong khi đó Dell lại bị lệ thuộc vào ASUS vì sau quá nhiều năm “ăn không ngồi rồi”, Dell đã không còn đủ khả năng sáng tạo ra 1 sản phẩm của riêng mình nữa.

    Câu chuyện trên là một bài học đắt giá đối với Dell. Do quá chủ quan trước những động thái của Asus, đông thời bị hấp dẫn bởi những món hời trước mắt, Dell đã đánh mất mình lúc nào không hay. Dell đã tự đào hố chôn mình khi để Asus đảm nhiệm quá nhiều khâu quan trọng trong qui trình sản xuất, dẫn tới một sự lệ thuộc quá mức, để khi Asus trở thành đối thủ cạnh tranh trực tiếp, lớn mạnh, thành thạo khâu sản xuất, lắp ráp và qui trình quản lí, chiếm lĩnh thị phần thì Dell đã không trở tay kịp. Do vậy, có thể thấy việc lựa chọn nhà cung cấp và kiểm soát các nhà cung cấp là rất quan trọng, nó giúp doanh nghiệp luôn chủ động trước các động thái của các đối tác này.

    Các nhà cung cấp có vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng của Dell. Vì nhờ có sự cung ứng của các nhà cung cấp mà Dell đã tiết kiệm được rất nhiều chi phí cho việc tự sản xuất các linh kiện và đạt được lợi nhuận cao hơn. Các nhà cung cấp của Dell thay vì chỉ sản xuất khi Dell đặt hàng thì phải dự báo trước nhu cầu để sản xuất linh kiện sẵn sàng cho lắp ráp và giúp Dell quản lý tốt hơn lượng hàng tồn trữ. Các nhà cung cấp là người lên ý tưởng để đáp ứng các nhu cầu của khách hàng, đồng thời cũng là người thực hiện các ý tưởng đó, giúp Dell thỏa mãn được nhu cầu của khách hàng.

    b. Nhà lắp ráp:

    Nhà lắp ráp có vai trò đặc biệt quan trọng trong chuỗi cung ứng của Dell. Vì họ đóng vai trò là người lắp ráp các linh kiện để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh để Dell cung cấp cho thị trường, đồng thời nếu có hỏng hóc xảy ra thì nhà lắp ráp sẽ sửa chữa.

    Bên cạnh các nhà máy của mình đặt tại nhiều nước trên toàn thế giới như Ai len, Ấn độ, Trung quốc, Brazil, Malaysia và Phần Lan… Dell còn có sự hợp tác vs Foxconn- một trong những nhà máy lắp ráp lớn nhất thế giới.

    Nhà sáng lập Terry Gou của Foxconn (Hồng Hải) gia nhập vào ngành công nghiệp điện tử vào năm 1974 bằng con đường sản xuất các bộ phận bằng nhựa cho máy thu hình đen trắng. Sau đó, công ty này nhảy vào những mảng phức tạp hơn như linh kiện máy tính.

    Đến nay, Foxconn đã lọt vào danh sách 500 công ty lớn nhất thế giới về doanh thu khi đủ khả năng lắp ráp khoảng 40% lượng hàng hóa điện tử tiêu dùng trên thế giới cho các khách hàng nổi tiếng như Apple, Amazon, Dell, Hewlett-Packard, Motorola, Nintendo, Nokia, Samsung và Sony.

    Năm 2008, nhận thấy sự phát triển mạnh mẽ của các smartphone và đặc biệt là sự ra đời của Iphone 3G của Apple đã thôi thúc Dell dấn thân vào lĩnh vực kinh doanh đầy hấp dẫn nhưng vô cùng khốc liệt này. Và nhà sản xuất được Dell chọn lựa để xâm chiếm thị trường smartphone là Foxconn. Với tốc độ sản xuất và lắp ráp linh kiện hàng đầu, Foxconn là một đối tác đáng tin cậy, đặc biệt với một công ty bán lẻ máy tính trực tiếp như Dell. Foxconn đảm bảo các đơn đặt hàng của Dell luôn được hoàn thành đúng thời hạn, nhờ vậy mà Dell cũng sẽ luôn đúng hẹn với khách hàng – đáp ứng yêu cầu hàng đầu đối với một nhà bán lẻ trực tiếp, hơn nữa, qui trình sản xuất nghiêm ngặt của Foxconn cũng là một đảm bảo cho chất lượng các sản phẩm được lắp ráp tại đây. Tuy nhiên, Foxconn cũng có không ít tai tiếng khi bị phanh phui trong việc bóc lột sức lao động của công nhân, khiến cho hình ảnh Foxconn và những sản phẩm nó tạo ra trở nên rất tồi tệ trong mắt công chúng. Đặc biệt khi các vụ tử tự của công nhân tại đây có chiều hướng tăng, các doanh nghiệp thậm chí không muốn sử dụng sản phẩm của Foxconn, điều này rất bất lợi đối với Dell khi mà cá cđối tác là doanh nghiệp chiếm phần lớn doanh thu của họ.

    c. Khách hàng

    Khách hàng là thành viên không thể thiếu trong bất kì chuỗi cung ứng nào, họ là người hình thành nhu cầu cho doanh nghiệp, đồng thời cũng là người tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.

    Marketing trực tiếp là hoạt động thương mại điện tử chính của Dell, các nhóm khách hàng chính của Dell gồm có:

    – Cá nhân sử dụng cho gia đình và văn phòng

    – Các doanh nghiệp nhỏ, dưới 200 nhân viên

    – Các doanh nghiệp vừa và lớn, trên 200 nhân viên

    – Các tổ chức chính phủ, giáo dục, y tế

    Cả hai nhóm khách hàng B2B và B2C đều thực hiện các giao dịch qua mạng tại http://www.dell.com thông qua hệ thống catalogue điện tử và xử lý đơn hàng tự động. Dell cũng triển khai hệ thống đấu giá điện tử tại http://www.dellauction.com để thu hút thêm khách hàng và củng cố thương hiệu.

    Phần lớn doanh thu của Dell từ B2B, trong khi B2C được thực hiện qua quy trình tương đối chuẩn hóa (catalogue, giỏ mua hàng, thanh toán bằng thẻ tín dụng…) các giao dịch B2B được hỗ trợ nhiều dịch vụ hơn. Dell cung cấp cho hơn 100.000 khách hàng doanh nghiệp dịch vụ hỗ trợ khách hàng đặc biệt (Premier Dell service). Một trong số những khách hàng B2B của Dell là British Airways (BA). Hãng hàng không quốc gia Anh đã sử dụng Dell như đối tác chiến lược. Dell cung cấp khoảng 25.000 máy tính xách tay và để bàn cho nhân viên của BA. Dell cung cấp hai hệ thông mua sắm trực tuyến cho BA, qua đó cho phép BA theo dõi, mua và kiểm tra các đơn hàng qua website đã được Dell customize phù hợp với BA. Tại website, BA có thể lựa chọn và cấu hình máy tính khác nhau sao cho phù hợp với từng bộ phận kinh doanh của mình. Nhân viên của BA thông qua hệ thống Intranet được kết nối với hệ thống của Dell cũng được phép lựa chọn và đặt mua máy tính phù hợp với nhu cầu sử dụng của mình.

    Ngày nay, khách hàng có lựa chọn kỹ hơn, thích những dòng sản phẩm có tính di động, tiện lợi cao, đòi hỏi chất lượng, kiểu dáng thời trang nhưng giá thành không quá đắt. Do đó, Dell đã và đang mở rộng danh mục sản phẩm, dịch vụ để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng. Dell đã liên tục đổi mới và lắng nghe những nhu cầu thực tế của khách hàng, vì vậy việc bắt kịp xu hướng của khách hàng là yếu tố then chốt để giúp Dell thành công. Tại các thị trường mới, để tiếp cận một cách nhanh nhất, Michael Dell đã thiết lập hàng loạt các đối tác phân phối sản phẩm. Vẫn trung thành với phương pháp giao hàng trực tiếp tới tay người tiêu dùng, cộng thêm vào đó là mở rộng mạng lưới dịch vụ chăm sóc khách hàng và đảm bảo chất lượng cho các sản phẩm được phân phối. Cứ ở đâu có sự xuất hiện của sản phẩm máy tính Dell đều có những trung tâm bảo hành và tư vấn sử dụng cho khách hàng. Thậm chí, nếu khách hàng không thể tới tận nới thì chuyên gia của Dell Computer Corporation sẽ thông qua điện thoại tư vấn cho khách hàng. Bằng cách này, Michael Dell đã bảo đảm giảm được 75% những sự cố của các sản phẩm và tạo được uy tín rất lớn với khách hàng. Hàng loạt các trung tâm dịch vụ chăm sóc khách hàng được tổ chức chặt chẽ được đặt ở nhiều quốc gia trong và ngoài khu vực như trung tâm chăm sóc khách hàng tại Alberta, Ottawa, Ontario, Central Texas, Salt Lake City, Utah, Nashville, Tennessee, Chesapeake, Roseburg, Oregon, Twin Falls, Idaho, Okahoma City, Okla, Samlvador, El Salvador, Vịnh Glace Bay, Nova Scotia, Panama City, Panama, Philippines, Malaysia, Trung Quốc, Ấn Độ…

    Theo kết quả kinh doanh của Dell trong quý 4 năm ngoái: ở khu vực doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp vừa và nhỏ, lợi nhuận của Dell đạt 15,7 tỷ USD, tăng liên tiếp 2% phần lớn nhờ vào kinh doanh dịch vụ và giải pháp doanh nghiệp. Hiện tại, một số khách hàng như Yahoo, AmazonWeb Services, Bing của Microsoft, Windows Azure và Ask.com đã và đang được Dell cung cấp các giải pháp và dịch vụ trong thị trường điện toán đám mây.

    Riêng ở thị trường Việt Nam, công ty nghiên cứu thị trường IDC đã xếp Dell ở vị trí cao nhất cho cả thị trường máy tính tiêu dùng và máy tính thương mại quý thứ 3 liên tiếp. Kết quả này cũng khẳng định chiến lược kinh doanh của Dell đã đi đúng hướng.



  • C. Đánh giá chuỗi cung ứng của Dell:

    Thành công
    Có thể nói, Dell đã thực sự xuất sắc trong việc xây dựng mô hình chuỗi cung ứng phải nói là vô cùng hoàn hảo – đó chính là mô hình CTO (Configuration to Order- khách hàng được yêu cầu cấu hình máy) hay MTO (Make to Order- sản xuất theo đơn đặt hàng). Chuỗi cung ứng Dell – sản xuất PC (Personal Computer – máy tính cá nhân) là chuỗi thành công nhất trong việc liên kết chặt chẽ giữa quy hoạch mạng lưới và quản lý tốt các dòng thông tin, dòng hàng và dòng tiền với sự điều hành thông minh nhằm thực hiện chiến lược cạnh tranh của hãng. Ý tưởng kinh doanh độc đáo của Michael Dell là cung ứng máy tính theo yêu cầu của chính người tiêu dùng, có nghĩa là lắp đặt máy tính theo đơn đặt hàng cụ thể của khách hàng chứ không bắt khách hàng mua máy tính được lắp đặt hàng loạt. Đó cũng chính là bí quyết thành công quan trọng nhất của thương hiệu này.Trong thời gian ngắn, hãng Dell đã trở thành nhà sản xuất PC lớn nhất trên thế giới, hàng ngày đã tạo ra lợi nhuận và hơn thế đã thâu tóm được thị trường, vượt lên trên bất kỳ đối thủ cạnh tranh nào sản xuất PC. Dell đã thể hiện một phần đáng kể thành công của mình trong việc quản lý tốt các dòng trong chuỗi.

    Trao đổi thông tin một cách khôn ngoan:

    Thành công của chuỗi phân phối Dell là nhờ việc trao đổi thông tin một cách khôn ngoan. Dell cung cấp số liệu thực cho nhà cung cấp về tình trạng nhu cầu hiện tại. Do vậy nhà cung cấp có thể biết được mức độ hàng tồn trữ của các linh kiện ở tại các nhà máy cùng với yêu cầu sản xuất hàng ngày. Dell đã tạo ra trang web tương thích để các nhà cung cấp chủ chốt có thể biết được dự báo nhu cầu và các thông tin nhạy cảm khác của khách hàng. Do vậy đã giúp các nhà cung cấp có được ý tưởng tốt hơn về những nhu cầu của khách và làm cho tiến trình sản xuất của họ phù hợp hơn với kế hoạch của Dell.

    Không sử dụng kênh trung gian:

    Ngay từ đầu, Dell đã kinh doanh trực tiếp và là 1 trong những nhà cung cấp đầu tiên sử dụng hệ thống đặt hàng qua mail, sau này tận dụng sức mạnh của Internet để phát triển nền tảng bán hàng trực tuyến. Từ trước khi việc sử dụng Internet trở nên phổ biến, Dell đã bắt đầu tích hợp các cập nhật trạng thái trực tuyến và hỗ trợ kỹ thuật nhằm đem lại dịch vụ khách hàng tốt hơn. Năm 1997, doanh số internet của Dell đã đạt ngưỡng trung bình 4 triệu USD/ngày.

    Trong khi mà đa số các bộ máy tính được bán ra lúc đó đều được lắp đặt và cài đặt sẵn tại cửa hàng bán lẻ, Dell cung cấp dịch vụ khách hàng siêu việt, cho phép họ chọn lựa cấu hình máy tính ở mức giá giảm đáng kể, nhờ vào việc cắt bỏ các kênh bán lẻ trung gian. Triết lý của Dell không gì khác hơn ngoài “thực sự thân thiện với khách hàng”, cụ thể là cung ứng cho khách hàng loại máy tính mà khách hàng cần và muốn có, tạo ra cho khách hàng nhiều sự lựa chọn khác nhau về tính năng, công suất và giá cả. Tùy theo nhu cầu sử dụng mà khách hàng có thể đặt hãng lắp ráp cho mình chiếc máy tính riêng. Hành động tách biệt hẳn với mô hình bán hàng, phân phối PC truyền thống đóng vai trò quan trọng trong thời gian phát triển ban đầu của Dell. Thêm vào đó, một lợi thế khác của việc sử dụng mô hình bán hàng trực tiếp trên Internet đó là nó đem lại dữ liệu thị trường chính xác, mà từ đó, công ty có thể sử dụng để dự đoán tương đối chính xác xu hướng, nhu cầu khách hàng và đưa ra các chiến lược mảng phù hợp. Các dữ liệu này thúc đẩy nỗ lực phát triển sản phẩm và cho phép Dell hưởng lợi từ các yếu tố then chốt đối với mỗi mảng khách hàng chính riêng biệt.

    Hầu hết các chuyên gia đều đánh giá chuỗi cung ứng của Dell là một trong những chuỗi cung ứng chất lượng hàng đầu bất chấp việc công ty máy tính này đang phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng. Thay vì thiết kế các hệ thống máy tính căn cứ vào những dự báo về doanh thu rồi để cho các công ty khác thực hiện việc bán hàng, Dell bán trực tiếp sản phẩm của mình thông qua trang web và các trung tâm bán lẻ của mình và sau đó thiết kế các hệ thống máy tính theo đơn đặt hàng. Cách này không chỉ loại bỏ các nhà phân phối và bán lẻ ra khỏi chuỗi cung ứng mà còn thu trực tiếp tiền bán hàng ngay từ đầu. Dell chỉ đặt hàng các linh kiện máy tính khi bản thân đã nhận được đơn hàng.

    Giảm thiểu tối đa hàng tồn kho:

    Vòng quay hàng tồn trữ là thước đo hiệu quả chủ yếu mà Dell đã rất chú ý. Dell chỉ lưu trữ một lượng hàng tồn không quá 1 ngày, trái lại nếu bán hàng qua hệ thống bán lẻ thì lượng hàng tồn có khi lên đến 80 hay 100 ngày. Nếu hãng Intel đưa ra một con chip mới thì với mức hàng tồn thấp sẽ giúp Dell đưa ra thị trường PC có con chíp đó nhanh hơn các đối thủ khác. Nếu giá bất ngờ giảm mà ta thường thấy thì Dell có lượng hàng tồn thấp sẽ bị mất giá trị ít hơn so với các đối thủ của mình.
    Để có thể cạnh tranh thành công với các đối thủ có chi phí thấp, Dell phải có một chuỗi cung ứng đủ khả năng đưa máy tính đến với khách hàng chỉ trong thời gian vài ngày. Công ty đã ký hợp tác đưa ra ngoài một số hoạt động như sản xuất linh kiện và chuyển phát nhanh, nhưng vẫn giữ lại các dây chuyền lắp ráp tại Mỹ, Ireland, Malaysia, Trung Quốc và Brazil. Vì mỗi nhu cầu của mỗi địa phương đó tương đối lớn và ổn định nên các nhà cung cấp có thể bổ sung linh kiện tồn trữ đều đặn giúp cho mức hàng tồn trữ cần có thấp hơn. Trong một vài trường hợp Dell chỉ lưu trữ linh kiện trong vài giờ ở tại các nhà máy lắp ráp của mình. Mức độ hàng tồn trữ thấp của Dell cũng giúp cho việc đảm bảo sản phẩm tạo ra ít có hư hỏng với số lượng lớn.

    Khi một sản phẩm mới được tung ra thì các kỹ sư của nhà cung cấp sẽ có mặt kịp thời tại nhà máy lắp ráp. Nếu khách hàng thông báo có trục trặc nào đó thì việc sản xuất linh kiện đó sẽ dừng và hư hỏng đó sẽ được khắc phục kịp thời. Vì không có thành phẩm nào ở dạng hàng tồn trữ nên số lượng hàng bị lỗi sẽ ở mức thấp nhất. Dell cũng quản lý dòng tiền hiệu quả. Nhờ quản lý rất chặt chẽ các tài khoản phải thu và các tài khoản phải chi nên họ có thể thu tiền từ khách hàng trung bình từ 10 – 15 ngày trước khi phải thanh toán cho nhà cung cấp.
    Đổi mới trong quy trình lắp ráp:

    Năm 1997, Dell đã tái tổ chức các quy trình lắp ráp. Thay vì bố trí một dây chuyền dài lắp ráp với công nhân thực hiện liên tục 1 công việc nhàm chán, Dell tạo ra các “nhóm sản xuất”. Các “nhóm” này tập hợp công nhân lại quanh khu vực nơi họ sẽ lắp ráp hoàn chỉnh PC dựa trên các yêu cầu của khách hàng. Các nhóm sản xuất đã làm tăng gấp đôi sản lượng sản xuất, giảm tới 75% thời gian lắp ráp.

    Dell cũng yêu cầu các nhà cung cấp chính thiết lập hệ thống hàng hoá gần các cơ sở lắp đặt của hãng. Việc này cho phép công ty liên kết với các nhà kho chứa hàng thời gian thực để có thể vận chuyển con số chính xác các bộ phận được yêu cầu trong thời gian ngắn. Chiến lược “kịp thời”, thêm chiến lược hàng tồn kho thấp giúp giảm thời gian Dell cung cấp các mẫu PC mới tới cho thị trường và cũng giảm giá 1 cách khá đáng kể so với mô hình lưu trữ hàng hoá truyền thống.

    Chiến lược này vô cùng hiệu quả, đặc biệt là trong thị trường mà các mặt hàng cũ nhanh chóng trở nên lỗi thời. Dell công khai chia sẻ lịch trình sản xuất của mình, dự đoán doanh số và kế hoạch phát triển sản phẩm mới đối với các nhà cung cấp. Việc thiết lập mối quan hệ gần gũi với đối tác cung cấp này cho phép Dell đạt lợi nhuận tối đa mà không cần phải đầu tư hàng tỷ đồng để tự mình thực hiện các hoạt động sản xuất.

    Dell đã kết hợp các sự đổi mới trong hoạt động và quy trình cùng với mô hình phân phối mang tính cách mạng để giảm giá tối đa và đem lại cho khách hàng giá trị lớn chưa từng thấy trong thị trường PC.
    Hạn chế
    Vài năm qua, trong khi các đối thủ cạnh tranh của Del như HP, IBM đang làm ăn phát đạt thì Dell lại thật sự chật vật. Mặc dù có nhiều tai tiếng về chất lượng phin của máy Dell nhưng nguyên nhân thực sự vẫn là mô hình cốt lõi CTO đã trở nên lỗi thời. Mọi mô hình đều đòi hỏi sự đánh đổi, với yêu cầu linh hoạt của MTO model đã làm chuỗi cung ững của Dell trở nên phức tạp hơn hẳn đối thủ. Trong môi trường kinh doanh thay đổi đến chóng mặt, nhu cầu liên tục chuyển từ hình thái này sang hình thái khác, đối thủ cạnh tranh ngày càng sang tạo hơn thì liệu một mô hình gần như hoàn hảo của Dell dường như không còn đúng mãi. Công ty Dell đã làm sửng sốt mọi người vì kêt quả kinh doanh quí 2-2006 quá tệ hại, lợi nhuận giảm đến 51% so với cùng lý năm trước.

    Mô hình chuỗi cung ứng như Dell sản xuất hay đặt hàng sản xuất mọi linh kiện của chiếc máy tính trên khắp thế giới ở nơi nào rẻ nhất rồi lắp ráp giao hàng cho khách khi có đơn hàng dường như không phải lúc nào cũng có lợi về chi phí như nhiều công ty từng lầm tưởng. Các chuỗi cung ứng đầu rủ ro, dễ bị khủng hoảng, khó quản lý và khó đạt được lợi nhuận trên vốn kỳ vọng. Chính người sang lập hãng Dell, Michael Dell cũng thừa nhận họ đã làm sai nhiều chuyện. Như vậy triết lý “quản lý chi phí” thường được khen ngợi hóa ra là sai lầm, cuối cùng phải thay bằng “quản lý dịch vụ và chất lượng”. Người ta cũng nhận ra rằng khách hàng cá nhân muốn tận tay sờ mó cái máy tính họ sẽ mua chứ không muốn biến mình thành cái máy vào trang web của Dell chọn máy và nhấn phím trả tiền một cách vô hồn.

    Đầu năm 2007, Dell đột ngột thay đổi vị trí phó chủ tịch phụ trách chuỗi cung ứng, Mike Cannon đã tiếp quản vị trí này. Đây là bước ngoặt lớn đối với Dell. Việc bổ nhiệm một phó chủ tịch phụ trách chuỗi cung ứng có kinh nghiệm trong sản xuất là dấu hiệu của sự thay đổi. Ông lập tức tuyên bố “mô hình Dell đã tôn tại hơn 20 năm qua đã lỗi thời” và Dell cần thay đổi mạnh mẽ mô hình kinh doanh của mình. Và rồi nhà máy Topfer PC ở Austin, Texas đóng cửa, nhà máy này từng là biểu tượng mô hình Dell.

    Với 500 ngàn cấu hình khác nhau để đáp ứng nhu cầu khách hàng, Dell đã trở lên quá tốn kém, vì, một điều cốt lõi những khách hàng high-end chỉ chiếm một phần nhỏ trong khi nhóm khách hàng low-end (chiếm số lượng rất lớn) lại ít có nhu cầu về cấu hình phức tạp. Điều đó có nghĩa là Dell không thể cùng một lúc đạt được “tổng chi phí thấp nhất” (Lowest total landed cost) và đảm bảo tốc độ/sự linh hoạt. Ngoài ra, trong bối cảnh tốc độ (speed) đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng ngày càng cần nhanh hơn thì với CTO của Dell thì phải mất đến vài tuần. Điều này chẳng bao giờ làm khách hàng cảm thấy dễ chịu, đối với những món đồ mà họ muốn sài ngay. Hơn nữa, hơn bao giờ hết, chi phí linh kiện và máy móc trở nên rẻ và rõ ràng chi phí tồn kho cho nó cũng vì thế mà rẻ hẳn đi, điều này sẽ làm đối thủ không khác nhiều so với Dell về tồn kho.

    Một số đề xuất giải pháp
    Bên cạnh việc chuyển đổi sang mô hình Make To Stock giống như các đối thủ cạnh tranh vào năm 2007, Dell có thể tiết kiệm được 2-3 tỷ USD trong 2-3 năm tới, Dell cũng cần chú trọng vào việc nâng cao giá trị khách hàng. Khai thác các thông số bán hàng và dữ liệu khách hàng từ doanh số trực tuyến sẽ cho phép Dell đón đầu nhu cầu trong thị trường PC liên tục phát triển. Tương tự, doanh số và dữ liệu phản hồi tương đối hữu ích trong việc nâng cao giá trị khách hàng trong mỗi mảng khách hàng riêng biệt. Dù công ty của anh lớn hay nhỏ, việc liên tục kiểm tra, xem xét sẽ cho thấy các xu hướng đang thịnh hành, sự thay đổi trong thái độ và các cơ hội hấp dẫn của công ty. Hơn thế nữa, Dell cần duy trì một mối quan hệ tốt với các nhà cung cấp và khách hàng, đặc biệt là khách hàng tổ chức- đây là tập khách hàng chính của công ty.

    Một trong những lợi thế của Dell đó là dịch vụ hậu mãi khá tốt. Điển hình như dịch vụ bảo hành tận nơi của Dell. khách hàng có thể được hỗ trợ sửa chữa và vận chuyển linh kiện thay thế đến địa điểm khách hàng lựa chọn hoặc được hỗ trợ chẩn đoán từ xa và giải quyết các vấn đề thường gặp thông qua Internet. Mỗi năm, bên cạnh việc phát triển hệ thống sản phẩm chất lượng của mình, Dell đồng thời giới thiệu nhiều dịch vụ khách hàng mới nhằm đáp ứng những đòi hỏi của các nhóm khách hàng đối với nhà cung cấp công nghệ. Tại Việt Nam, Dell cũng có hai trung tâm thay thế linh kiện (Parts Exchange Center – PEC) tại Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh với những dịch vụ bảo hành và thay thế linh kiện chuyên nghiệp và hệ thống lưu trữ các dữ liệu cập nhật về những lần bảo hành của khách hàng. Từ năm 2011 nhằm mang lại những hỗ trợ toàn diện hơn cho đối tác và khách hàng, Dell cung cấp thêm một số dịch vụ như ProSupport và Basic NBD* Onsite Support được thiết kế dành riêng cho nhóm khách hàng doanh nghiệp với mục tiêu giúp nâng cao hiệu quả làm việc, giảm thiểu chi phí đầu tư hạ tầng và đơn giản hóa khâu vận hành và quản lý hệ thống máy tính trong doanh nghiệp. Dịch vụ Prosupport được thiết kế nhằm giảm thiểu thời gian ngừng hoạt động cho máy tính của khách hàng, đường dây điện thoại hỗ trợ hoạt động 24/7 (kể cả ngày nghỉ). Dịch vụ hỗ trợ sửa chữa cơ bản tận nơi Basic NBD* Onsite Diagnosis cho phép khách hàng lựa chọn địa điểm để hưởng những hỗ trợ của hãng. Trong năm 2012, dịch vụ bao hành tận nơi đã được triển khai trên 13 quốc gia khác nhau. Khi khách hàng mua bất kì sản phẩm laptop hoặc desktop của Dell sẽ được nhận 1 năm sử dụng dịch vụ bảo hành tận nơi miễn phí. Vì vậy Dell cần củng cố và phát huy các dịch vụ này để khách hàng tin tưởng và ủng hộ mình.