Một vụ lừa đảo tinh vi bằng nghiệp vụ logistics thông thường



  • (VLR) Sự việc dưới đây cho thấy, chỉ bằng một nghiệp vụ logistics rất giản đơn và phổ biến trong thương mại hàng hải quốc tế là Switch B/L (thay đổi vận đơn), Người bán đã lừa đảo người mua một cách tinh vi và khá hoàn hảo.

    Chỉ bằng một nghiệp vụ logistics rất giản đơn và phổ biến trong thương mại hàng hải quốc tế là Switch B/L (thay đổi vận đơn), Người bán đã lừa đảo người mua một cách tinh vi và khá hoàn hảo

    Sự việc

    Đầu năm 2018 doanh nghiệp A ở Hà Nội đã nhập khẩu từ một thương nhân Singapore lô sắt vụn, loại ISRI 210-211(tiêu chuẩn Mỹ) đóng trong 200 container 40 feet. Giá hàng 410 USD/T, theo điều kiện CFR Incoterms 2010 cảng Hải Phòng. Hợp đồng quy định tỷ lệ tạp chất không được vượt quá 0,5%, nếu vượt quá tỷ lệ này Người bán sẽ bị phạt ở mức 50USD/MT. Về điều khoản giám định ở cảng đích, do biết chắc thế nào Người mua cũng sẽ khiếu nại về phẩm chất hàng, nên Người bán quy định rất khắt khe là trong vòng một tuần sau khi dỡ hàng, việc giám định toàn bộ lô hàng phải kết thúc, trên cơ sở đó Người mua mới có quyền khiếu nại. Rất tiếc, Người mua không phát hiện ra sự trói buộc khác thường này trong quá trình thương thảo hợp đồng. Sau này, qua điều tra tìm hiểu, Người mua mới vỡ lẽ thực tế lô hàng này thương nhân Singapore mua của một Chủ bãi phế liệu sắt thép châu Âu để bán lại cho mình với giá trên, nhưng thực sự không phải họ mua loại sắt vụn ISRI 210-211, như quy định mà là một loại sắt vụn khác, với phẩm cấp cực kỳ thấp kém.

    Sau khi chuyến hàng đầu tiên 10.000 tấn về đến nơi, Người mua đã lựa chọn ngẫu nhiên một vài container để giám định chất lượng thì thấy đại bộ phận hàng hóa là tạp chất, tỷ lệ tạp chất lên đến 37% - 38%, thậm chí có những container lên đến hơn 40%. Do chất lượng hàng hóa quá kém, phải mất gần 4 tháng, Công ty giám định mới kết thúc việc giám định bằng phương pháp thủ công với tỷ lệ lựa chọn ngẫu nhiên một số container theo tập quán nhập khẩu sắt vụn ở Việt Nam. Ngay lập tức, Người mua thông báo cho Người bán biết tình trạng hàng hóa như trên và đề nghị họ cử ngay đại diện sang Việt Nam để cùng xem xét, giải quyết và cũng yêu cầu đình chỉ giao những lô hàng tiếp theo nếu phẩm chất vẫn tương tự, tuy nhiên những đề nghị này của họ đều bị rơi vào im lặng. Sau nhiều ngày liên tiếp bị thúc giục, Người bán thừa nhận đây là lô hàng họ mua của Chủ bãi sắt phế thải ở châu Âu để bán lại cho Người mua ở Việt Nam, vì vậy họ đề nghị Người mua ủy quyền cho họ khiếu nại chủ bãi châu Âu. Tất nhiên Người mua không chấp nhận lời đề nghị kỳ quặc này vì hợp đồng quy định rõ thương nhân Singapore là Người bán, Người mua không quan tâm và không cần biết đến bên thứ ba nào cả. Không còn lựa chọn nào khác, Người mua thông báo sẽ khởi kiện ra một cơ quan trọng tài thương mại mà hai bên đã lựa chọn trong hợp đồng để đòi bồi thường thiệt hại khoảng hơn một triệu USD cộng với gần 20 tỷ VNĐ các chi phí liên quan. Mặt khác, Người mua cũng đã yêu cầu tòa án Việt Nam ra lệnh cho Ngân hàng mở L/C ở Hà Nội phong tỏa, đình chỉ thanh toán. Trước khi khởi kiện, Người mua phải chi tiêu khá tốn kém để giám định hàng dù tỷ lệ giám định cũng chỉ dừng lại ở mức khoảng 20% số container. Điều đáng lưu ý là do tỷ lệ tạp chất và rác trong lô hàng này quá cao so với thông thường, nên việc giám định chỉ có thể tiến hành bằng phương pháp thủ công. Với phương pháp giám định như vậy, nếu giám định toàn bộ 10.000 tấn của lô hàng này, cần phải có thời gian trên 2 năm, vì vậy không thể nào giám định 100% lô hàng được.

    Trải qua các phiên tranh tụng căng thẳng kéo dài trước trọng tài phía Người bán vẫn cố bám vào lập luận rằng Người mua đã không giám định 100% container trong vòng một tuần sau khi dỡ hàng để từ chối bồi thường. Họ cũng ngụy tạo khi nói rằng họ đã từng cử đại diện sang châu Âu để kiểm tra, khiếu nại phẩm chất hàng với Chủ bãi ở đó. Ở phiên tranh tụng cuối cùng, phía Người mua, sau khi liên hệ với Chủ bãi sắt phế thải châu Âu, bất ngờ đã trưng ra bằng chứng hợp đồng và các chứng từ liên quan khác để chứng minh hàng hóa mà Người bán ký hợp đồng mua từ chủ bãi châu Âu không phải là sắt vụn theo phẩm cấp ISRI 210-211 của Mỹ mà là theo phẩm cấp E46 của châu Âu, chất lượng thấp hơn hẳn so với vụn phẩm cấp 210-211 theo tiêu chuẩn ISRI Mỹ. Tất nhiên mọi người thừa hiểu sắt vụn ISRI 210-211 khác xa với sắt vụn E46 không những về chất lượng mà cả về giá cả. Thực tế Người bán đã mua của Chủ bãi châu Âu với giá 310USD/tấn và bán lại cho đối tác Việt Nam với giá 410 USD/tấn cùng điều kiện CFR Incoterms 2010, cảng Hải Phòng. Phía Chủ bãi châu Âu cũng cho biết thương nhân Singapore này chưa bao giờ cử đại diện sang châu Âu để kiểm tra và khiếu nại phẩm chất hàng. Từ những bằng chứng này, có thể thấy Người bán đã lừa đảo người mua rất ngoạn mục, hợp cách, tinh vi và khá hoàn hảo trong phi vụ này bằng một nghiệp vụ logistics rất giản đơn và phổ biến trong thương mại hàng hải quốc tế, đó là Switch B/L (thay đổi vận đơn), nghĩa là sau khi hàng đã bốc lên tàu ở cảng châu Âu, họ đề nghị người vận chuyển thay đổi tên gọi hàng hóa trong vận đơn gốc đầu tiên, từ loại E46 thành loại ISRI 210- 211 mà họ đã cam và tên Chủ hàng sẽ đổi lại là họ, chứ không còn là Chủ bãi châu Âu như cũ, còn các thông tin khác như cảng bốc hàng, cảng dỡ hàng, tên tàu, số lượng, trọng lượng, khối lượng hàng, số vận đợn, ngày cấp vận đơn và số container vẫn giữ nguyên như bộ chứng từ mà họ nhận từ chủ bãi châu Âu, nghĩa là người bán phía Singapore đã áp dụng khá thành thạo, hoàn chỉnh nghiệp vụ Switch B/L trong nghiệp vụ logistics thông thường. Động tác này thường chỉ tốn vài dòng email trao đổi với người vận chuyển là xong, miễn là Chủ hàng có yêu cầu thay đổi như vậy phải cam kết tự mình chịu trách nhiệm về hậu quả của những thay đổi đó.

    Nhận định của hội đồng trọng tài

    Sau nhiều lần trao đổi quan điểm dưới những góc độ khác nhau, một số trọng tài viên tham gia xét xử vụ tranh chấp này thấy rằng đúng là Người bán phía Singpore đã có những vi phạm về phẩm chất hàng so với hợp đồng mua bán, còn những hành vi lừa đảo của Người bán không thuộc sự điều chỉnh của pháp luật về hợp đồng thương mại, nghĩa là nằm ngoài chức năng xét xử của trọng tài thương mại. Do vậy, Hội đồng trọng tài, dựa trên cơ sở hợp đồng mua bán và các biên bản giám định chất lượng hàng, cũng chỉ có thể xem xét yêu cầu Người bán bồi thường ở phần hàng hóa thiệt hại (khoảng 20%) mà người mua đã giám định theo quy định khắt khe trong hợp đồng cùng một vài chi phí hợp lý khác, còn hành động mang những dấu hiệu lừa đảo thông qua nghiệp vụ Switch B/L của người bán phải giải quyết theo luật và thẩm quyền của các cơ quan thực thi pháp luật khác phù hợp.

    Lời khuyên

    Để ngăn chặn những kiểu lừa đảo như trên, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu sắt vụn cần quy định rõ trong hợp đồng nhập khẩu sắt vụn rằng: Người mua có quyền chỉ định giám định riêng để xem xét chất lượng hàng khi bốc lên tàu ở cảng đi. Đừng bao giờ nghĩ rằng vì doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu theo điều kiện CFR hay CIF nên mọi việc ở cảng đi không cần phải lưu tâm nhiều. Về điều khoản giám định hàng ở cảng đích, Người mua Việt Nam tuyệt đối không bao giờ chấp nhận phải giám định toàn bộ lô hàng hàng nghìn tấn sắt vụn trong vòng một tuần lễ sau khi dỡ hàng ở cảng Việt Nam, vì đây là một việc làm gần như thách đố, không thể thực hiện đối với những lô hàng sắt vụn hàng nghìn tấn. Một điều nữa cũng cần lưu ý thỏa đáng là phải quy định rõ trong hợp đồng việc giám định sắt vụn chỉ nên tiến hành bằng phương pháp lựa chọn ngẫu nhiên với tỷ lệ tối đa không quá 10%. Trong các hợp đồng bán sắt vụn cho các doanh nghiệp Việt Nam, các thương nhân nước ngoài thường đưa ra điều khoản phạt nếu tỷ lệ tạp chất trong sắt vụn vượt quá quy định của hợp đồng. Điều này mới xem qua có vẻ hợp lý và dễ chấp nhận, tuy nhiên khi tranh chấp được xét xử theo luật Thương mại Việt Nam thì phía người mua sẽ rơi vào tình trạng bất lợi do Điều 301 trong Luật thương mại Việt Nam quy định một khi đã phạt thì chỉ được phạt tối đa không quá 8% trị giá phần thiệt hại.

    LS. Võ Nhật Thăng